Tôi nghe như thế này:
Vào một thời, Đức Thế Tôn ngự tại thành Xá-vệ, trong Kỳ-đà Lâm, khu vườn của ông Cấp Cô Độc. Khi ấy, vị Bà-la-môn Jānussoni đến chỗ Đức Thế Tôn, chào hỏi thân thiện, nói những lời thăm hỏi xã giao, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vị Bà-la-môn Jānussoni thưa với Đức Thế Tôn:
“Thưa Tôn giả Gotama, có những người con trai dòng họ tốt, vì lòng tin nơi Tôn giả Gotama, đã xuất gia, từ bỏ đời sống gia đình, sống đời không gia đình. Đối với họ, Tôn giả Gotama là người dẫn dắt. Đối với họ, Tôn giả Gotama giúp ích rất nhiều. Đối với họ, Tôn giả Gotama là người khích lệ, thúc đẩy. Họ chấp nhận và làm theo quan điểm của Tôn giả Gotama.”
“Này Bà-la-môn, đúng như vậy. Này Bà-la-môn, đúng như vậy. Có những người con trai dòng họ tốt, vì lòng tin nơi Ta, đã xuất gia, từ bỏ đời sống gia đình, sống đời không gia đình. Ta là người dẫn dắt họ. Ta giúp ích rất nhiều cho họ. Ta khích lệ, thúc đẩy họ. Và họ chấp nhận, làm theo quan điểm của Ta.”
“Thưa Tôn giả Gotama, những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu thật khó chịu đựng! Đời sống xa lánh dục lạc thật khó thực hành! Đời sống một mình thật khó hưởng thụ! Con nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí của vị Tỳ-kheo chưa đạt được định tĩnh.”
“Này Bà-la-môn, đúng như vậy. Này Bà-la-môn, đúng như vậy. Những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu thật khó chịu đựng! Đời sống xa lánh dục lạc thật khó thực hành! Đời sống một mình thật khó hưởng thụ! Ta cũng nghĩ rằng rừng núi làm rối loạn tâm trí của vị Tỳ-kheo chưa đạt được định tĩnh.”
“Này Bà-la-môn, thuở xưa, khi Ta chưa chứng ngộ quả vị Chánh Đẳng Giác, còn là Bồ-tát, Ta đã nghĩ như sau: ‘Những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu thật khó chịu đựng! Đời sống xa lánh dục lạc thật khó thực hành! Đời sống một mình thật khó hưởng thụ! Rừng núi làm rối loạn tâm trí của vị Tỳ-kheo chưa đạt được định tĩnh!’”
“Này Bà-la-môn, rồi Ta suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào thân làm việc bất thiện, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì thân bất thiện và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không làm việc bất thiện bằng thân khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Thân Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh với thân thanh tịnh, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát thân mình hoàn toàn thanh tịnh, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào miệng nói điều bất thiện, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì lời nói bất thiện và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không nói điều bất thiện bằng miệng khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Lời nói của Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh với lời nói thanh tịnh, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát lời nói mình hoàn toàn thanh tịnh, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào ý nghĩ bất thiện, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì ý nghĩ bất thiện và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không nuôi ý nghĩ bất thiện khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ý Ta thanh tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh với ý thanh tịnh, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát ý mình hoàn toàn thanh tịnh, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào tham đắm dục vọng mãnh liệt, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì tham đắm dục vọng và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không tham đắm dục vọng khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có dục vọng. Ta là một trong những bậc Thánh không có dục vọng, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình không có dục vọng, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào mang tâm sân hận, ác ý, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì sân hận, ác ý và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không mang tâm sân hận, ác ý khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta có lòng từ. Ta là một trong những bậc Thánh có lòng từ, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình có lòng từ, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào bị buồn ngủ, uể oải chi phối, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì buồn ngủ, uể oải và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không bị buồn ngủ, uể oải chi phối khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta tỉnh sáng. Ta là một trong những bậc Thánh tỉnh sáng, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình tỉnh sáng, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào tâm dao động, không an tịnh, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì tâm dao động, không an tịnh và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không dao động, tâm Ta an tịnh khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta có tâm an tịnh. Ta là một trong những bậc Thánh có tâm an tịnh, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát tâm mình an tịnh, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào nghi ngờ, do dự, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì nghi ngờ, do dự và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không nghi ngờ, không do dự khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta vượt qua nghi ngờ. Ta là một trong những bậc Thánh vượt qua nghi ngờ, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình vượt qua nghi ngờ, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào khen mình, chê người, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì khen mình, chê người và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không khen mình, không chê người khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không khen mình, không chê người. Ta là một trong những bậc Thánh không khen mình, không chê người, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình không khen mình, không chê người, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào run rẩy, sợ hãi, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì run rẩy, sợ hãi và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không run rẩy, không sợ hãi khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta không có lông tóc dựng ngược. Ta là một trong những bậc Thánh không có lông tóc dựng ngược, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình không có lông tóc dựng ngược, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào ham muốn lợi lộc, danh vọng, sự kính trọng, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì ham muốn lợi lộc, danh vọng, sự kính trọng và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không ham muốn lợi lộc, danh vọng, sự kính trọng khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta sống ít dục. Ta là một trong những bậc Thánh sống ít dục, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình sống ít dục, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào lười biếng, thiếu tinh tấn, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì lười biếng, thiếu tinh tấn và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không lười biếng, không thiếu tinh tấn khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta tinh tấn, siêng năng. Ta là một trong những bậc Thánh tinh tấn, siêng năng, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình tinh tấn, siêng năng, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào quên chánh niệm, không tỉnh giác, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì quên chánh niệm, không tỉnh giác và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không quên chánh niệm, không thiếu tỉnh giác khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta an trú chánh niệm. Ta là một trong những bậc Thánh an trú chánh niệm, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình an trú chánh niệm, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào tâm không định tĩnh, tán loạn, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì tâm không định tĩnh, tán loạn và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta có tâm định tĩnh, không tán loạn khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta đạt được định tâm. Ta là một trong những bậc Thánh đạt được định tâm, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình đạt được định tâm, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Những vị Sa-môn hay Bà-la-môn nào trí tuệ kém, ngu muội, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu, vì trí tuệ kém, ngu muội và nhiễm ô, chắc chắn sẽ sinh ra sợ hãi, khiếp đảm, và những điều xấu ác. Nhưng Ta không kém trí tuệ, không ngu muội khi sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu. Ta đạt được trí tuệ. Ta là một trong những bậc Thánh đạt được trí tuệ, sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, khi tự quán sát mình đạt được trí tuệ, Ta cảm thấy lòng tin càng vững chắc hơn khi sống trong rừng núi.”
“Này Bà-la-môn, Ta lại suy nghĩ: ‘Vào những đêm được xác định, như đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám của mỗi nửa tháng, Ta sẽ đến ở tại những nơi đáng sợ, lông tóc dựng ngược, như miếu thờ trong các vườn cây, miếu thờ trong rừng núi, miếu thờ dưới những cây cổ thụ, để tự mình chứng kiến sự sợ hãi, khiếp đảm.’ Sau đó, vào những đêm như vậy – đêm mười bốn, đêm mười lăm, đêm mồng tám của mỗi nửa tháng – Ta đến ở tại những nơi đáng sợ ấy. Khi đang ở đó, có lúc một con thú đến gần, hoặc một con công làm rơi cành cây, hoặc gió thổi làm lá xào xạc, Ta nghĩ: ‘Nay sự sợ hãi, khiếp đảm đã đến!’ Này Bà-la-môn, rồi Ta tự nhủ: ‘Sao Ta ở đây chỉ để chờ đợi sự sợ hãi, khiếp đảm mà không làm gì khác? Dù sự sợ hãi, khiếp đảm đến trong bất kỳ tư thế nào, Ta sẽ diệt trừ nó ngay trong tư thế ấy.’”
“Này Bà-la-môn, khi Ta đang đi qua lại mà sự sợ hãi, khiếp đảm đến, Ta không đứng, không ngồi, không nằm, mà vẫn đi qua lại để diệt trừ sự sợ hãi, khiếp đảm ấy. Khi Ta đang đứng mà sự sợ hãi, khiếp đảm đến, Ta không đi, không ngồi, không nằm, mà vẫn đứng để diệt trừ sự sợ hãi, khiếp đảm ấy. Khi Ta đang ngồi mà sự sợ hãi, khiếp đảm đến, Ta không nằm, không đứng, không đi, mà vẫn ngồi để diệt trừ sự sợ hãi, khiếp đảm ấy. Khi Ta đang nằm mà sự sợ hãi, khiếp đảm đến, Ta không ngồi, không đứng, không đi, mà vẫn nằm để diệt trừ sự sợ hãi, khiếp đảm ấy.”
“Này Bà-la-môn, có những Sa-môn, Bà-la-môn cho rằng ngày giống như đêm, đêm giống như ngày. Ta nói rằng họ đang sống trong mê muội. Này Bà-la-môn, Ta biết đêm là đêm, ngày là ngày. Nếu ai nói đúng sự thật, họ sẽ nói về Ta rằng: ‘Ngài là bậc không mê muội, sinh ra vì hạnh phúc của muôn loài, vì an lạc của muôn loài, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho chư Thiên và loài người.’”
“Này Bà-la-môn, Ta tinh tấn, siêng năng, không lười biếng; chánh niệm vững vàng, không rối loạn; thân an lạc, không dao động; tâm định tĩnh, chuyên nhất. Ta xa rời dục vọng, xa rời các điều xấu ác, chứng và an trú Thiền thứ nhất, trạng thái hỷ lạc do xa rời dục vọng mà sinh, có tầm, có tứ.
Khi tầm và tứ diệt, Ta chứng và an trú Thiền thứ hai, trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm, không tứ, nội tâm an tĩnh, nhất tâm.
Xa rời hỷ, an trú trong xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là ‘xả niệm lạc trú’, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba.
Xa rời lạc, xa rời khổ, diệt hỷ và ưu đã cảm nhận trước đó, Ta chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.”
“With a mind thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of impurities, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of recollecting my past lives. I recollected my manifold past lives, that is, one birth, two births, three births, four births, five births, ten births, twenty births, thirty births, forty births, fifty births, a hundred births, a thousand births, a hundred thousand births, many aeons of world-contraction, many aeons of world-expansion, many aeons of world-contraction and expansion: ‘There I was so named, of such a clan, with such an appearance, such was my food, such my experience of pleasure and pain, such my life-term; and passing away from there, I reappeared elsewhere; and there too I was so named, of such a clan, with such an appearance, such was my food, such my experience of pleasure and pain, such my life-term; and passing away from there, I reappeared here.’ Thus with their aspects and particulars I recollected my manifold past lives.
“Này Bà-la-môn, trong canh đầu của đêm, Ta chứng minh thứ nhất: vô minh diệt, trí sáng sinh; bóng tối diệt, ánh sáng hiện, nhờ Ta sống không phóng túng, nhiệt tâm, tinh tấn.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, sáng trong, không vết nhơ, không phiền não, mềm dẻo, dễ vận dụng, vững chắc, bất động, Ta hướng tâm đến trí biết về sự sống chết của chúng sinh. Với thiên nhãn thanh tịnh vượt xa con người, Ta thấy chúng sinh chết và tái sinh; Ta hiểu rõ rằng chúng sinh, kẻ thấp hèn, người cao quý, kẻ đẹp đẽ, người xấu xí, kẻ hạnh phúc, người bất hạnh, đều do nghiệp của họ tạo ra. Những ai làm ác bằng thân, lời, ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo nghiệp theo tà kiến, khi thân hoại mạng chung, họ tái sinh vào cõi khổ, loài dữ, nơi đọa lạc, địa ngục. Còn những ai làm thiện bằng thân, lời, ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo nghiệp theo chánh kiến, khi thân hoại mạng chung, họ tái sinh vào cõi lành, cõi trời, thế giới này. Như vậy, với thiên nhãn thanh tịnh vượt xa con người, Ta thấy chúng sinh chết và tái sinh, hiểu rõ rằng tất cả đều do nghiệp của họ.”
“Này Bà-la-môn, trong canh giữa của đêm, Ta chứng minh thứ hai: vô minh diệt, trí sáng sinh; bóng tối diệt, ánh sáng hiện, nhờ Ta sống không phóng túng, nhiệt tâm, tinh tấn.
Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, sáng trong, không vết nhơ, không phiền não, mềm dẻo, dễ vận dụng, vững chắc, bất động, Ta hướng tâm đến trí diệt tận lậu hoặc. Ta hiểu rõ như thật: ‘Đây là khổ’, ‘Đây là nguyên nhân của khổ’, ‘Đây là sự diệt khổ’, ‘Đây là con đường dẫn đến diệt khổ’; Ta hiểu rõ như thật: ‘Đây là các lậu hoặc’, ‘Đây là nguyên nhân của lậu hoặc’, ‘Đây là sự diệt lậu hoặc’, ‘Đây là con đường dẫn đến diệt lậu hoặc’.
Nhờ hiểu biết như vậy, thấy rõ như vậy, tâm Ta thoát khỏi lậu hoặc tham dục, lậu hoặc hữu, lậu hoặc vô minh. Khi đã tự giải thoát, Ta biết: ‘Ta đã giải thoát.’ Ta hiểu rõ: ‘Sinh đã tận, đời sống phạm hạnh đã hoàn thành, việc cần làm đã làm xong, không còn trở lại trạng thái này nữa.’”
“Này Bà-la-môn, trong canh cuối của đêm, Ta chứng minh thứ ba: vô minh diệt, trí sáng sinh; bóng tối diệt, ánh sáng hiện, nhờ Ta sống không phóng túng, nhiệt tâm, tinh tấn.
Này Bà-la-môn, có thể ông nghĩ rằng: ‘Sa-môn Gotama nay vẫn còn tham, còn sân, còn si, nên mới sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu.’ Này Bà-la-môn, chớ nghĩ như vậy. Ta sống ở những nơi ẩn cư xa vắng trong rừng núi hoang vu vì hai mục đích: để tự mình an lạc trong hiện tại và vì lòng thương tưởng chúng sinh trong tương lai.”
“Thưa Tôn giả Gotama, chúng sinh trong tương lai được Tôn giả thương tưởng, bởi Tôn giả là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Thật kỳ diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Thật kỳ diệu thay, thưa Tôn giả Gotama! Như người dựng lại những gì bị đổ ngã, mở ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc lối, mang đèn sáng vào bóng tối để người có mắt thấy được hình sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều cách trình bày, giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng Tỳ-kheo. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử tại gia; từ nay cho đến trọn đời, con nguyện trọn đời quy ngưỡng.”
Lưu ý phần dịch
Bản dịch sát nghĩa và dễ hiểu. Nhưng nó tập trung vào việc diễn giải nghĩa đơn giản cho người đọc dễ hiểu hơn.
Được biên soạn bởi Thuvienphatgiao.org
Hành trình đến con đường Giác ngộ