Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), khu vườn của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc).
Lúc bấy giờ, Tỷ-kheo Sati, con của một người đánh cá, khởi sinh ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.”
Nhiều Tỷ-kheo nghe rằng: “Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi sinh ác tà kiến như sau: ‘Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.’” Các Tỷ-kheo ấy đến chỗ Tỷ-kheo Sati ở, sau khi đến, liền nói với Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá:
—Này Hiền giả Sati, có đúng sự thật rằng Hiền giả khởi sinh ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác” không?
—Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.
Các Tỷ-kheo ấy, muốn khiến Tỷ-kheo Sati từ bỏ ác tà kiến ấy, liền cật vấn, chất vấn lý do và thảo luận:
—Này Hiền giả Sati, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn. Xuyên tạc Đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không hề nói như vậy. Này Hiền giả Sati, Đức Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn để giảng rằng thức khởi sinh do duyên; nếu không có duyên thì thức không hiện khởi.
Dù được các Tỷ-kheo cật vấn, chất vấn và thảo luận, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, vẫn khăng khăng giữ ác tà kiến ấy, cứng đầu chấp chặt và bám giữ tà kiến:
—Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.
Vì không thể khiến Tỷ-kheo Sati từ bỏ ác tà kiến ấy, các Tỷ-kheo đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo bạch Đức Thế Tôn:
—Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi sinh ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.” Bạch Thế Tôn, chúng con nghe rằng: “Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, khởi sinh ác tà kiến như vậy.” Chúng con đến chỗ Tỷ-kheo Sati, thưa rằng: “Này Hiền giả Sati, có đúng sự thật rằng Hiền giả khởi sinh ác tà kiến như sau: ‘Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác’ không?” Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo Sati đáp: “Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.” Bạch Thế Tôn, chúng con muốn khiến Tỷ-kheo Sati từ bỏ ác tà kiến ấy, nên đã cật vấn, chất vấn lý do và thảo luận: “Này Hiền giả Sati, chớ nói như vậy, chớ xuyên tạc Đức Thế Tôn. Xuyên tạc Đức Thế Tôn là không tốt. Đức Thế Tôn không hề nói như vậy. Này Hiền giả Sati, Đức Thế Tôn đã dùng nhiều pháp môn để giảng rằng thức khởi sinh do duyên; nếu không có duyên thì thức không hiện khởi.” Nhưng bạch Thế Tôn, dù được chúng con cật vấn, chất vấn và thảo luận, Tỷ-kheo Sati vẫn khăng khăng giữ ác tà kiến ấy, cứng đầu chấp chặt và bám giữ: “Thật sự là vậy, chư Hiền. Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.” Bạch Thế Tôn, vì chúng con không thể khiến Tỷ-kheo Sati từ bỏ ác tà kiến ấy, nên đến đây để hỏi ý nghĩa từ Ngài.
Đức Thế Tôn gọi một Tỷ-kheo khác:
—Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta gọi Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá: “Này Hiền giả Sati, bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.”
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Vị Tỷ-kheo ấy vâng lời Đức Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Sati, thưa rằng:
—Này Hiền giả Sati, bậc Đạo Sư gọi Hiền giả.
—Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đáp lời, đến chỗ Đức Thế Tôn, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Đức Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Sati đang ngồi một bên:
—Này Sati, có thật rằng ông khởi sinh ác tà kiến như sau: “Theo như tôi hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác” không?
—Thật sự là vậy, bạch Thế Tôn. Theo như con hiểu pháp mà Đức Thế Tôn thuyết giảng, thì thức này dong ruổi, luân chuyển, nhưng không đổi khác.
—Này Sati, thức ấy là gì?
—Bạch Thế Tôn, chính thức ấy là thứ nói, cảm thọ, và thọ lãnh ở đây ở kia, kết quả của các hành động thiện ác.
—Này kẻ mê muội kia, từ ai mà ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy? Này kẻ mê muội kia, chẳng phải Ta đã dùng nhiều pháp môn giảng rằng thức khởi sinh do duyên, không có duyên thì thức không hiện khởi sao? Thế mà ông không chỉ xuyên tạc Ta bằng cách chấp thủ sai lầm, ông còn tự hủy hoại mình và tạo ra nhiều tổn đức. Này kẻ mê muội kia, điều này sẽ dẫn ông đến bất hạnh và đau khổ lâu dài.
Rồi Đức Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
—Này các Tỷ-kheo, các ông nghĩ thế nào? Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, có thể khởi lên chút ánh sáng trí tuệ nào trong Pháp và Luật này không?
—Bạch Thế Tôn, làm sao có thể được? Không thể được, bạch Thế Tôn.
Khi nghe vậy, Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, im lặng, hổ thẹn, vai rụt lại, cúi đầu, lo âu, không nói nên lời. Đức Thế Tôn, biết Tỷ-kheo Sati đang im lặng, hổ thẹn, vai rụt lại, cúi đầu, lo âu, không nói nên lời, liền nói:
—Này kẻ mê muội kia, người ta sẽ biết ông qua chính ác tà kiến của ông. Ở đây, Ta sẽ hỏi các Tỷ-kheo.
Rồi Đức Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
—Này các Tỷ-kheo, các ông có hiểu pháp Ta thuyết giảng giống như Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá này—người không chỉ xuyên tạc Ta bằng cách chấp thủ sai lầm, mà còn tự hủy hoại mình và tạo ra nhiều tổn đức—không?
—Bạch Thế Tôn, không. Bạch Thế Tôn, Ngài đã dùng nhiều pháp môn giảng rằng thức khởi sinh do duyên; không có duyên thì thức không hiện khởi.
—Lành thay, này các Tỷ-kheo! Lành thay, các ông hiểu pháp Ta thuyết giảng như vậy! Này các Tỷ-kheo, Ta đã dùng nhiều pháp môn giảng rằng thức khởi sinh do duyên; không có duyên thì thức không hiện khởi. Nhưng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, không chỉ xuyên tạc Ta bằng cách chấp thủ sai lầm, mà còn tự hủy hoại mình và tạo ra nhiều tổn đức, điều này sẽ dẫn kẻ mê muội ấy đến bất hạnh và đau khổ lâu dài.
(Duyên sinh Thức)
—Này các Tỷ-kheo, thức khởi sinh do duyên, và tên gọi của thức tùy thuộc vào duyên ấy. Do duyên mắt và sắc, thức khởi sinh, gọi là nhãn thức. Do duyên tai và âm thanh, thức khởi sinh, gọi là nhĩ thức. Do duyên mũi và mùi hương, thức khởi sinh, gọi là tỷ thức. Do duyên lưỡi và vị, thức khởi sinh, gọi là thiệt thức. Do duyên thân và xúc, thức khởi sinh, gọi là thân thức. Do duyên ý và pháp, thức khởi sinh, gọi là ý thức. Này các Tỷ-kheo, cũng như lửa khởi sinh do duyên và được gọi tên theo duyên ấy: do duyên củi, lửa khởi sinh, gọi là lửa củi; do duyên vỏ bào, lửa khởi sinh, gọi là lửa vỏ bào; do duyên cỏ, lửa khởi sinh, gọi là lửa cỏ; do duyên phân bò, lửa khởi sinh, gọi là lửa phân bò; do duyên trấu, lửa khởi sinh, gọi là lửa trấu; do duyên đống rác, lửa khởi sinh, gọi là lửa đống rác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thức khởi sinh do duyên, và tên gọi của thức tùy thuộc vào duyên ấy: do duyên mắt và sắc là nhãn thức, do duyên tai và âm thanh là nhĩ thức, do duyên mũi và mùi hương là tỷ thức, do duyên lưỡi và vị là thiệt thức, do duyên thân và xúc là thân thức, do duyên ý và pháp là ý thức.
(Các câu hỏi về sinh vật)
—Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy sinh vật này không?
—Bạch Thế Tôn, có thấy.
—Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy sinh vật được hình thành do các món ăn không?
—Bạch Thế Tôn, có thấy.
—Này các Tỷ-kheo, các ông có thấy khi các món ăn đoạn diệt thì sinh vật ấy cũng đoạn diệt không?
—Bạch Thế Tôn, có thấy.
—Này các Tỷ-kheo, do do dự mà nghi hoặc khởi sinh: “Sinh vật này có thể không tồn tại được không?”
—Bạch Thế Tôn, có vậy.
—Này các Tỷ-kheo, do do dự mà nghi hoặc khởi sinh: “Sự hình thành từ các món ăn có thể có hay không?”
—Bạch Thế Tôn, có vậy.
—Này các Tỷ-kheo, do do dự mà nghi hoặc khởi sinh: “Do sự đoạn diệt của các món ăn, sinh vật có thể đoạn diệt hay không?”
—Bạch Thế Tôn, có vậy.
—Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật bằng chánh trí tuệ, thì nghi ngờ này được đoạn trừ: “Sinh vật này có thể không tồn tại được không?”
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật bằng chánh trí tuệ, thì nghi ngờ này được đoạn trừ: “Sự hình thành từ các món ăn có thể có hay không?”
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, nếu thấy như thật bằng chánh trí tuệ, thì nghi ngờ này được đoạn trừ: “Do sự đoạn diệt của các món ăn, sinh vật có thể đoạn diệt hay không?”
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, sinh vật này tồn tại, ở đây các ông có còn nghi hoặc không?
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, sự hình thành của sinh vật từ các món ăn, ở đây các ông có còn nghi hoặc không?
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt của các món ăn, sinh vật đoạn diệt, ở đây các ông có còn nghi hoặc không?
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, sinh vật này tồn tại, các ông có thấy như thật bằng chánh trí tuệ không?
—Bạch Thế Tôn, có.
—Này các Tỷ-kheo, sự hình thành của sinh vật từ các món ăn, các ông có thấy như thật bằng chánh trí tuệ không?
—Bạch Thế Tôn, có.
—Này các Tỷ-kheo, do sự đoạn diệt của các món ăn mà sinh vật đoạn diệt, các ông có thấy như thật bằng chánh trí tuệ không?
—Bạch Thế Tôn, có.
—Này các Tỷ-kheo, với tri kiến thanh tịnh và trong sáng như vậy, nếu các ông chấp trước, tự hào, truy cầu, xem đó là của mình, thì các ông có hiểu ví dụ chiếc bè—rằng Pháp được giảng dạy để vượt qua, không phải để nắm giữ—không?
—Bạch Thế Tôn, không.
—Này các Tỷ-kheo, với tri kiến thanh tịnh và trong sáng như vậy, nếu các ông không chấp trước, không tự hào, không truy cầu, không xem đó là của mình, thì các ông có hiểu ví dụ chiếc bè—rằng Pháp được giảng dạy để vượt qua, không phải để nắm giữ—không?
—Bạch Thế Tôn, có.
(Thức ăn và Duyên khởi)
—Này các Tỷ-kheo, có bốn món ăn giúp duy trì các loài hữu tình đã sinh và hỗ trợ các loài hữu tình sẽ sinh. Đó là gì? Một là đoàn thực (thức ăn vật chất), thô hoặc tế; hai là xúc thực; ba là tư niệm thực; bốn là thức thực.
—Này các Tỷ-kheo, bốn món ăn này lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Bốn món ăn này lấy ái (tham ái) làm nhân duyên, lấy ái làm tập khởi, lấy ái làm nguồn gốc, lấy ái làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, ái lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Ái lấy thọ làm nhân duyên, lấy thọ làm tập khởi, lấy thọ làm nguồn gốc, lấy thọ làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thọ lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Thọ lấy xúc làm nhân duyên, lấy xúc làm tập khởi, lấy xúc làm nguồn gốc, lấy xúc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, xúc lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Xúc lấy sáu nhập (sáu căn) làm nhân duyên, lấy sáu nhập làm tập khởi, lấy sáu nhập làm nguồn gốc, lấy sáu nhập làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, sáu nhập lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Sáu nhập lấy danh sắc làm nhân duyên, lấy danh sắc làm tập khởi, lấy danh sắc làm nguồn gốc, lấy danh sắc làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, danh sắc lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Danh sắc lấy thức làm nhân duyên, lấy thức làm tập khởi, lấy thức làm nguồn gốc, lấy thức làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, thức lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Thức lấy hành làm nhân duyên, lấy hành làm tập khởi, lấy hành làm nguồn gốc, lấy hành làm nguyên nhân. Này các Tỷ-kheo, hành lấy gì làm nhân duyên, lấy gì làm tập khởi, lấy gì làm nguồn gốc, lấy gì làm nguyên nhân? Hành lấy vô minh làm nhân duyên, lấy vô minh làm tập khởi, lấy vô minh làm nguồn gốc, lấy vô minh làm nguyên nhân.
(Duyên theo chiều thuận)
—Như vậy, này các Tỷ-kheo, do vô minh duyên hành, do hành duyên thức, do thức duyên danh sắc, do danh sắc duyên sáu nhập, do sáu nhập duyên xúc, do xúc duyên thọ, do thọ duyên ái, do ái duyên thủ, do thủ duyên hữu, do hữu duyên sinh, do sinh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi sinh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Duyên theo chiều nghịch)
—Trước đã nói: “Do sinh duyên già, chết.” Này các Tỷ-kheo, “Do sinh duyên già, chết” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do sinh duyên già, chết. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do sinh duyên già, chết.
—Trước đã nói: “Do hữu duyên sinh.” Này các Tỷ-kheo, “Do hữu duyên sinh” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do hữu duyên sinh. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do hữu duyên sinh.
—Trước đã nói: “Do thủ duyên hữu.” Này các Tỷ-kheo, “Do thủ duyên hữu” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do thủ duyên hữu. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do thủ duyên hữu.
—Trước đã nói: “Do ái duyên thủ.” Này các Tỷ-kheo, “Do ái duyên thủ” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do ái duyên thủ. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do ái duyên thủ.
—Trước đã nói: “Do thọ duyên ái.” Này các Tỷ-kheo, “Do thọ duyên ái” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do thọ duyên ái. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do thọ duyên ái.
—Trước đã nói: “Do xúc duyên thọ.” Này các Tỷ-kheo, “Do xúc duyên thọ” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do xúc duyên thọ. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do xúc duyên thọ.
—Trước đã nói: “Do sáu nhập duyên xúc.” Này các Tỷ-kheo, “Do sáu nhập duyên xúc” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do sáu nhập duyên xúc. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do sáu nhập duyên xúc.
—Trước đã nói: “Do danh sắc duyên sáu nhập.” Này các Tỷ-kheo, “Do danh sắc duyên sáu nhập” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do danh sắc duyên sáu nhập. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do danh sắc duyên sáu nhập.
—Trước đã nói: “Do thức duyên danh sắc.” Này các Tỷ-kheo, “Do thức duyên danh sắc” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do thức duyên danh sắc. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do thức duyên danh sắc.
—Trước đã nói: “Do hành duyên thức.” Này các Tỷ-kheo, “Do hành duyên thức” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do hành duyên thức. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do hành duyên thức.
—Trước đã nói: “Do vô minh duyên hành.” Này các Tỷ-kheo, “Do vô minh duyên hành” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do vô minh duyên hành. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do vô minh duyên hành.
(Tóm lược về Duyên)
—Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các ông nói như vậy, và Ta cũng nói như vậy: “Cái này có thì cái kia có, cái này sinh thì cái kia sinh.” Như vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên sáu nhập, sáu nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh, sinh duyên già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi sinh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Diệt theo chiều thuận)
—Do vô minh đoạn diệt và xả ly hoàn toàn, các hành diệt. Do các hành diệt, thức diệt. Do thức diệt, danh sắc diệt. Do danh sắc diệt, sáu nhập diệt. Do sáu nhập diệt, xúc diệt. Do xúc diệt, thọ diệt. Do thọ diệt, ái diệt. Do ái diệt, thủ diệt. Do thủ diệt, hữu diệt. Do hữu diệt, sinh diệt. Do sinh diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
(Diệt theo chiều nghịch)
—Trước đã nói: “Do sinh diệt thì già, chết diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do sinh diệt thì già, chết diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do sinh diệt thì già, chết diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do sinh diệt thì già, chết diệt.
—Trước đã nói: “Do hữu diệt thì sinh diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do hữu diệt thì sinh diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do hữu diệt thì sinh diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do hữu diệt thì sinh diệt.
—Trước đã nói: “Do thủ diệt thì hữu diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do thủ diệt thì hữu diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do thủ diệt thì hữu diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do thủ diệt thì hữu diệt.
—Trước đã nói: “Do ái diệt thì thủ diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do ái diệt thì thủ diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do ái diệt thì thủ diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do ái diệt thì thủ diệt.
—Trước đã nói: “Do thọ diệt thì ái diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do thọ diệt thì ái diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do thọ diệt thì ái diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do thọ diệt thì ái diệt.
—Trước đã nói: “Do xúc diệt thì thọ diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do xúc diệt thì thọ diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do xúc diệt thì thọ diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do xúc diệt thì thọ diệt.
—Trước đã nói: “Do sáu nhập diệt thì xúc diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do sáu nhập diệt thì xúc diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do sáu nhập diệt thì xúc diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do sáu nhập diệt thì xúc diệt.
—Trước đã nói: “Do danh sắc diệt thì sáu nhập diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do danh sắc diệt thì sáu nhập diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do danh sắc diệt thì sáu nhập diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do danh sắc diệt thì sáu nhập diệt.
—Trước đã nói: “Do thức diệt thì danh sắc diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do thức diệt thì danh sắc diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do thức diệt thì danh sắc diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do thức diệt thì danh sắc diệt.
—Trước đã nói: “Do hành diệt thì thức diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do hành diệt thì thức diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do hành diệt thì thức diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do hành diệt thì thức diệt.
—Trước đã nói: “Do vô minh diệt thì hành diệt.” Này các Tỷ-kheo, “Do vô minh diệt thì hành diệt” có đúng không, hay nghĩa ở đây là thế nào?
—Bạch Thế Tôn, do vô minh diệt thì hành diệt. Đối với chúng con, nghĩa ở đây là: Do vô minh diệt thì hành diệt.
(Tóm lược về Diệt)
—Lành thay, này các Tỷ-kheo! Các ông nói như vậy, và Ta cũng nói như vậy: “Cái này không có thì cái kia không có, cái này diệt thì cái kia diệt.” Như vô minh diệt thì hành diệt, hành diệt thì thức diệt, thức diệt thì danh sắc diệt, danh sắc diệt thì sáu nhập diệt, sáu nhập diệt thì xúc diệt, xúc diệt thì thọ diệt, thọ diệt thì ái diệt, ái diệt thì thủ diệt, thủ diệt thì hữu diệt, hữu diệt thì sinh diệt, sinh diệt thì già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
(Tri kiến về ngã)
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông còn chạy theo quá khứ, suy nghĩ: “Ta có tồn tại trong quá khứ hay không? Ta đã như thế nào trong quá khứ? Ta có hình dạng gì trong quá khứ? Trước đó ta là gì, và sau đó ta thành gì trong quá khứ?” không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông còn chạy theo tương lai, suy nghĩ: “Ta sẽ tồn tại trong tương lai hay không? Ta sẽ như thế nào trong tương lai? Ta sẽ có hình dạng gì trong tương lai? Trước đó ta là gì, và sau đó ta sẽ thành gì trong tương lai?” không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông còn nghi ngờ về hiện tại: “Ta có tồn tại hay không? Ta là gì? Ta có hình dạng nào? Sinh vật này từ đâu đến, và sẽ đi về đâu?” không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông có nói: “Chúng ta nói vậy vì tôn kính bậc Đạo Sư” không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông có nói: “Một Sa-môn nói với chúng tôi như vậy, và các Sa-môn khác cũng nói như vậy, còn chúng tôi không nói như vậy” không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông có tìm kiếm một Đạo Sư khác không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, khi biết như vậy, thấy như vậy, các ông có quay lại các giới cấm, tế tự, đàn tràng của các Sa-môn, Bà-la-môn thế tục và xem đó là căn bản không?
—Thưa không, bạch Thế Tôn.
—Này các Tỷ-kheo, có phải các ông chỉ nói những gì tự mình biết, tự mình thấy, tự mình ý thức không?
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
—Lành thay, này các Tỷ-kheo! Này các Tỷ-kheo, các ông đã được Ta hướng dẫn đến Chánh Pháp thiết thực hiện tại, không lệ thuộc thời gian, đến để thấy, hướng thượng, được người trí tự mình giác ngộ. Này các Tỷ-kheo, Chánh Pháp này thiết thực hiện tại, không lệ thuộc thời gian, đến để thấy, hướng thượng, được người trí tự mình giác ngộ. Tất cả những gì đã nói đều do duyên này mà nói.
(Vòng luân hồi: từ sinh đến trưởng thành)
—Này các Tỷ-kheo, có ba điều hòa hợp để thai nhi thành hình: Ở đây, nếu cha mẹ giao hợp nhưng người mẹ không trong thời kỳ thụ thai, và hương ấm (gandhabba) không hiện diện, thì thai nhi không thành hình. Nếu cha mẹ giao hợp, người mẹ trong thời kỳ thụ thai, nhưng hương ấm không hiện diện, thì thai nhi cũng không thành hình. Này các Tỷ-kheo, chỉ khi cha mẹ giao hợp, người mẹ trong thời kỳ thụ thai, và hương ấm hiện diện—với ba điều hòa hợp như vậy—thì thai nhi mới thành hình.
—Này các Tỷ-kheo, trong chín hoặc mười tháng, người mẹ mang thai với sự lo âu lớn lao vì gánh nặng ấy. Sau chín hoặc mười tháng, người mẹ sinh con với sự lo âu lớn lao vì gánh nặng ấy. Khi đã sinh, người mẹ nuôi đứa trẻ bằng máu của mình. Này các Tỷ-kheo, trong luật của bậc Thánh, sữa mẹ được xem là máu.
—Này các Tỷ-kheo, khi đứa trẻ lớn lên, các căn dần thuần thục, nó chơi các trò chơi của trẻ con như chơi với cày nhỏ, chơi khăn, nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi đồ đong bằng lá, chơi xe nhỏ, chơi cung nhỏ.
—Này các Tỷ-kheo, khi đứa trẻ lớn hơn, các căn như mắt đã thuần thục, nó thọ hưởng đầy đủ năm dục lạc: các sắc do mắt nhận biết—khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, khơi dậy tham dục, hấp dẫn; các âm thanh do tai nhận biết; các mùi hương do mũi nhận biết; các vị do lưỡi nhận biết; các xúc do thân cảm nhận—khả ái, khả hỷ, khả lạc, khả ý, khơi dậy tham dục, hấp dẫn.
(Tiếp tục luân hồi)
—Khi thấy sắc bằng mắt, người ấy tham đắm sắc đẹp, ghét bỏ sắc xấu, sống với niệm không an trú trên thân, tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát—những thứ giúp đoạn trừ hoàn toàn các ác, bất thiện pháp mà không để lại dư tàn. Do đó, khi gặp thuận hay nghịch, bất kỳ cảm thọ nào khởi sinh—lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ—người ấy tùy hỷ, hoan nghênh, chấp trước cảm thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, chấp trước cảm thọ ấy, dục hỷ khởi sinh. Do dục hỷ đối với các cảm thọ ấy, tức là có chấp thủ. Do duyên thủ, hữu khởi sinh; do duyên hữu, sinh khởi sinh; do duyên sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi sinh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
—Khi nghe âm thanh bằng tai… ngửi mùi hương bằng mũi… nếm vị bằng lưỡi… cảm xúc bằng thân… nhận thức pháp bằng ý, người ấy tham đắm pháp tốt, ghét bỏ pháp xấu, sống với niệm không an trú trên thân, tâm nhỏ hẹp. Người ấy không như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát—những thứ giúp đoạn trừ hoàn toàn các ác, bất thiện pháp mà không để lại dư tàn. Do đó, khi gặp thuận hay nghịch, bất kỳ cảm thọ nào khởi sinh—lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ—người ấy tùy hỷ, hoan nghênh, chấp trước cảm thọ ấy. Vì tùy hỷ, hoan nghênh, chấp trước cảm thọ ấy, dục hỷ khởi sinh. Do dục hỷ đối với các cảm thọ ấy, tức là có chấp thủ. Do duyên thủ, hữu khởi sinh; do duyên hữu, sinh khởi sinh; do duyên sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não khởi sinh. Như vậy là sự tập khởi của toàn bộ khổ uẩn này.
(Đoạn tận luân hồi: Sự tu tập)
—Này các Tỷ-kheo, ở đời, Như Lai xuất hiện, bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Sau khi tự chứng ngộ bằng thượng trí, Ngài thuyết giảng cho thế giới này—bao gồm chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, Sa-môn, Bà-la-môn, loài người—những gì Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ ý nghĩa và văn tự, truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh.
—Một gia chủ, con của gia chủ, hay người sinh trong giai cấp thấp nghe pháp ấy, sinh lòng kính ngưỡng Như Lai. Khi có lòng kính ngưỡng, người ấy suy nghĩ: “Đời sống gia đình chật hẹp, đầy bụi trần thế tục. Đời sống xuất gia như không gian rộng mở. Thật khó cho người sống trong gia đình hành phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh, trắng trong như vỏ ốc. Ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống đời không gia đình.” Sau một thời gian, người ấy từ bỏ tài sản ít hay nhiều, từ bỏ thân quyến ít hay nhiều, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống đời không gia đình.
—Khi đã xuất gia, vị ấy sống thành tựu học pháp và chánh hạnh của bậc Thánh: từ bỏ sát sinh, tránh xa sát sinh, buông bỏ gậy gộc, dao kiếm, biết hổ thẹn, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sinh và loài hữu tình; từ bỏ lấy của không cho, chỉ nhận những gì được cho, mong cầu những gì được cho, sống thanh tịnh, không trộm cắp; từ bỏ tà hạnh, sống phạm hạnh, tránh xa dục vọng thấp hèn; từ bỏ nói dối, nói lời chân thật, đáng tin cậy, không lừa dối đời; từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, không gây chia rẽ, sống hòa hợp kẻ ly tán, khuyến khích sự hòa hợp, nói lời hòa hợp; từ bỏ nói lời ác độc, nói lời không lỗi, đẹp tai, dễ thương, thông cảm, tao nhã, làm vui lòng nhiều người; từ bỏ nói phù phiếm, nói lời đúng thời, chân thật, có ý nghĩa, về Chánh Pháp, về Luật, đáng ghi nhớ, hợp lý, mạch lạc, hữu ích.
—Vị ấy từ bỏ làm hại hạt giống và cây cỏ, dùng một bữa mỗi ngày, không ăn ban đêm, từ bỏ ăn phi thời; từ bỏ xem múa hát, nhạc, trình diễn; từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm; từ bỏ giường cao, giường lớn; từ bỏ nhận vàng bạc, hạt sống, thịt sống, phụ nữ, nô tỳ, cừu dê, gia cầm, heo, voi, bò, ngựa; từ bỏ nhận ruộng đất; từ bỏ làm môi giới hoặc sai người làm môi giới; từ bỏ buôn bán, gian lận bằng cân, tiền, đo lường; từ bỏ hối lộ, lừa đảo, sát hại, trói buộc, cướp bóc.
—Vị ấy biết đủ với y áo che thân, với đồ khất thực nuôi bụng, đi đâu cũng mang theo y bát. Như chim bay mang theo đôi cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo biết đủ với y áo che thân, đồ khất thực nuôi bụng, đi đâu cũng mang theo y bát. Nhờ thành tựu Thánh giới uẩn này, vị ấy hưởng lạc nội tâm không lỗi.
—Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân khiến mắt không chế ngự, dẫn đến tham ái, ưu, bi, ác, bất thiện pháp khởi sinh, vị ấy chế ngự, hộ trì mắt, thực hành sự hộ trì mắt. Khi tai nghe âm thanh… mũi ngửi mùi hương… lưỡi nếm vị… thân cảm xúc… ý nhận thức pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân khiến ý căn không chế ngự, dẫn đến tham ái, ưu, bi, ác, bất thiện pháp khởi sinh, vị ấy chế ngự, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Nhờ thành tựu sự hộ trì cao quý các căn, vị ấy hưởng lạc nội tâm không lỗi.
—Vị ấy đi tới, đi lui đều tỉnh giác; nhìn thẳng, nhìn quanh đều tỉnh giác; co tay, duỗi tay đều tỉnh giác; mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; ăn uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; đi đại tiểu tiện đều tỉnh giác; đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, im lặng đều tỉnh giác.
—Với Thánh giới uẩn, sự hộ trì các căn cao quý, và chánh niệm tỉnh giác này, vị ấy chọn nơi thanh vắng như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi khất thực về, ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, an trú chánh niệm trước mặt. Từ bỏ tham ái đời, vị ấy sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm khỏi tham ái; từ bỏ sân hận, sống với tâm không sân hận, từ bi với mọi chúng sinh, gột rửa tâm khỏi sân hận; từ bỏ hôn trầm thụy miên, sống thoát ly hôn trầm thụy miên, hướng tâm về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm khỏi hôn trầm thụy miên; từ bỏ trạo cử hối quá, sống không trạo cử, nội tâm an tịnh, gột rửa tâm khỏi trạo cử hối tiếc; từ bỏ nghi ngờ, sống vượt nghi ngờ, không lưỡng lự, gột rửa tâm khỏi nghi ngờ về thiện pháp.
—Sau khi từ bỏ năm triền cái làm ô nhiễm tâm, làm yếu trí tuệ, vị ấy ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sinh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sinh, không tầm, không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú,” chứng và trú Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
(Đoạn tận luân hồi: Giải thoát rốt ráo)
—Khi thấy sắc bằng mắt, vị ấy không tham đắm sắc đẹp, không ghét bỏ sắc xấu, sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát—những thứ giúp đoạn trừ hoàn toàn các ác, bất thiện pháp mà không để lại dư tàn. Do đó, dù gặp thuận hay nghịch, bất kỳ cảm thọ nào khởi sinh—lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ—vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không chấp trước cảm thọ ấy. Vì không tùy hỷ, không hoan nghênh, không chấp trước, dục hỷ đối với các cảm thọ ấy diệt. Do dục hỷ diệt, thủ diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sinh diệt; do sinh diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
—Khi nghe âm thanh bằng tai… ngửi mùi hương bằng mũi… nếm vị bằng lưỡi… cảm xúc bằng thân… nhận thức pháp bằng ý, vị ấy không tham đắm pháp tốt, không ghét bỏ pháp xấu, sống an trú niệm trên thân, với tâm vô lượng. Vị ấy như thật biết tâm giải thoát, tuệ giải thoát—những thứ giúp đoạn trừ hoàn toàn các ác, bất thiện pháp mà không để lại dư tàn. Do đó, dù gặp thuận hay nghịch, bất kỳ cảm thọ nào khởi sinh—lạc thọ, khổ thọ, hay bất khổ bất lạc thọ—vị ấy không tùy hỷ, không hoan nghênh, không chấp trước cảm thọ ấy. Vì không tùy hỷ, không hoan nghênh, không chấp trước, dục hỷ đối với các cảm thọ ấy diệt. Do dục hỷ diệt, thủ diệt; do thủ diệt, hữu diệt; do hữu diệt, sinh diệt; do sinh diệt, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não diệt. Như vậy là sự đoạn diệt của toàn bộ khổ uẩn này.
(Kết luận)
—Này các Tỷ-kheo, các ông hãy ghi nhớ sự đoạn tận tham ái và giải thoát này mà Ta đã giảng vắn tắt. Nhưng hãy nhớ rằng Tỷ-kheo Sati, con của người đánh cá, đã bị mắc kẹt trong lưới lớn của tham ái, trong sự rối loạn của tham ái.
Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn.
Hành trình đến con đường Giác ngộ