Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Đức Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
—Này các Tỷ-kheo!
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỷ-kheo ấy cung kính đáp lời Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thuyết giảng như sau:
—Này các Tỷ-kheo, phần lớn các loài hữu tình có dục vọng (chanda) như thế này, có ước vọng (panidhi) như thế này, có nguyện vọng (patthanā) như thế này: “Ôi, mong rằng các pháp bất khả ái (aniṭṭha), bất khả lạc (akanta), bất khả ý (amanāpa) được tiêu diệt! Mong rằng các pháp khả ái (iṭṭha), khả lạc (kanta), khả ý (manāpa) được tăng trưởng!” Này các Tỷ-kheo, dù các loài hữu tình có dục vọng, ước vọng, nguyện vọng như vậy, nhưng các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý lại tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý lại tiêu diệt. Ở đây, này các Tỷ-kheo, các ông có biết vì nguyên nhân gì không?
—Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, các pháp dựa Thế Tôn làm căn bản, hướng Thế Tôn làm lãnh đạo, nương tựa Thế Tôn làm chỗ dựa. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn thuyết giảng ý nghĩa này! Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ hành trì.
—Vậy, này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỷ-kheo ấy cung kính đáp lời Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thuyết giảng như sau:
(Nguyên nhân của khổ lạc)
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, kẻ vô văn phàm phu (assutavā puthujjano) không đến yết kiến các bậc Thánh, không thuần thục pháp các bậc Thánh, không tu tập pháp các bậc Thánh, không đến yết kiến các bậc Chân nhân, không thuần thục pháp các bậc Chân nhân, không tu tập pháp các bậc Chân nhân—không biết rõ các pháp nên phục vụ (sevitabba), không biết rõ các pháp không nên phục vụ (na sevitabba), không biết rõ các pháp nên thân cận (upagaṇhitabba), không biết rõ các pháp không nên thân cận (na upagaṇhitabba). Vì không biết rõ như vậy, vị này phục vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên phục vụ, thân cận các pháp không nên thân cận, không thân cận các pháp nên thân cận. Do phục vụ các pháp không nên phục vụ, không phục vụ các pháp nên phục vụ, thân cận các pháp không nên thân cận, không thân cận các pháp nên thân cận, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì người ấy không có trí (paññā) đối với pháp này.
—Này các Tỷ-kheo, vị đa văn Thánh đệ tử (sutavā ariyasāvaka) đến yết kiến các bậc Thánh, thuần thục pháp các bậc Thánh, tu tập pháp các bậc Thánh, đến yết kiến các bậc Chân nhân, thuần thục pháp các bậc Chân nhân, tu tập pháp các bậc Chân nhân—biết rõ các pháp nên phục vụ, biết rõ các pháp không nên phục vụ, biết rõ các pháp nên thân cận, biết rõ các pháp không nên thân cận. Vì biết rõ như vậy, vị này phục vụ các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các pháp không nên thân cận. Do phục vụ các pháp nên phục vụ, không phục vụ các pháp không nên phục vụ, thân cận các pháp nên thân cận, không thân cận các pháp không nên thân cận, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
(Bốn loại pháp hành)
—Này các Tỷ-kheo, có bốn pháp hành (dhammasamādāna). Thế nào là bốn? Có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ; có pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ; có pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc; có pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc.
(Kẻ vô trí)
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do vô trí (avijjā) với pháp này, do si mê (moha), nên không tuệ tri như thật (yathābhūtaṃ nappajānāti): “Đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.” Do vô trí, si mê, không tuệ tri như thật, vị này phục vụ (sevati) pháp ấy, không tránh né (na parivajjati) pháp ấy. Vì phục vụ, không tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.” Do vô trí, si mê, không tuệ tri như thật, vị này phục vụ pháp ấy, không tránh né pháp ấy. Vì phục vụ, không tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.” Do vô trí, si mê, không tuệ tri như thật, vị này không phục vụ pháp ấy, tránh né pháp ấy. Vì không phục vụ, tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc. Do vô trí với pháp này, do si mê, nên không tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc.” Do vô trí, si mê, không tuệ tri như thật, vị này không phục vụ pháp ấy, tránh né pháp ấy. Vì không phục vụ, tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này.
(Người trí)
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ. Do có trí (vijjā) với pháp này, do tâm sáng suốt (vippasanna-citta), vị này tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.” Do có trí, tâm sáng suốt, tuệ tri như thật, vị này không phục vụ pháp ấy, tránh né pháp ấy. Vì không phục vụ, tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.” Do có trí, tâm sáng suốt, tuệ tri như thật, vị này không phục vụ pháp ấy, tránh né pháp ấy. Vì không phục vụ, tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.” Do có trí, tâm sáng suốt, tuệ tri như thật, vị này phục vụ pháp ấy, không tránh né pháp ấy. Vì phục vụ, không tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
—Ở đây, này các Tỷ-kheo, đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc. Do có trí với pháp này, do tâm sáng suốt, vị này tuệ tri như thật: “Đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc.” Do có trí, tâm sáng suốt, tuệ tri như thật, vị này phục vụ pháp ấy, không tránh né pháp ấy. Vì phục vụ, không tránh né pháp ấy, nên các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý bị tiêu diệt; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý tăng trưởng. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỷ-kheo, là vì vị ấy có trí đối với pháp này.
(Bốn pháp hành cụ thể)
—Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với khổ, với ưu, sát sinh, và do duyên sát sinh, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, lấy của không cho, và do duyên lấy của không cho, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, sống tà hạnh trong các dục, và do duyên tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, nói vọng ngữ, và do duyên vọng ngữ, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, nói hai lưỡi, và do duyên hai lưỡi, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, nói ác ngữ, và do duyên ác ngữ, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, nói phù phiếm, và do duyên phù phiếm, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, có tham ái, và do duyên tham ái, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, có sân hận, và do duyên sân hận, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, có tà kiến, và do duyên tà kiến, cảm thọ khổ, ưu. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại khổ và tương lai quả báo cũng khổ.
—Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ, sát sinh, và do duyên sát sinh, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, lấy của không cho, và do duyên lấy của không cho, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, sống tà hạnh trong các dục, và do duyên tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, nói vọng ngữ, và do duyên vọng ngữ, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, nói hai lưỡi, và do duyên hai lưỡi, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, nói ác ngữ, và do duyên ác ngữ, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, nói phù phiếm, và do duyên phù phiếm, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, có tham ái, và do duyên tham ái, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, có sân hận, và do duyên sân hận, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, có tà kiến, và do duyên tà kiến, cảm thọ lạc, hỷ. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sinh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.
—Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với khổ, với ưu, từ bỏ sát sinh, và do duyên từ bỏ sát sinh, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ tà hạnh trong các dục, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ vọng ngữ, và do duyên từ bỏ vọng ngữ, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ hai lưỡi, và do duyên từ bỏ hai lưỡi, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ ác ngữ, và do duyên từ bỏ ác ngữ, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ phù phiếm, và do duyên từ bỏ phù phiếm, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tham ái, và do duyên từ bỏ tham ái, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ sân hận, và do duyên từ bỏ sân hận, cảm thọ khổ, ưu; với khổ, với ưu, từ bỏ tà kiến, và do duyên từ bỏ tà kiến, cảm thọ khổ, ưu. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sinh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
—Này các Tỷ-kheo, thế nào là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người với lạc, với hỷ, từ bỏ sát sinh, và do duyên từ bỏ sát sinh, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ lấy của không cho, và do duyên từ bỏ lấy của không cho, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ tà hạnh trong các dục, và do duyên từ bỏ tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ vọng ngữ, và do duyên từ bỏ vọng ngữ, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ hai lưỡi, và do duyên từ bỏ hai lưỡi, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ ác ngữ, và do duyên từ bỏ ác ngữ, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, từ bỏ phù phiếm, và do duyên từ bỏ phù phiếm, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, không có tham ái, và do duyên không tham ái, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, không có sân hận, và do duyên không sân hận, cảm thọ lạc, hỷ; với lạc, với hỷ, có chánh kiến, và do duyên chánh kiến, cảm thọ lạc, hỷ. Sau khi thân hoại mạng chung, vị ấy sinh vào thiện thú, Thiên giới, cõi đời này. Như vậy, này các Tỷ-kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc.
(Ví dụ)
—Này các Tỷ-kheo, ví như trái bí đắng (tittakālābu) tẩm thuốc độc. Rồi một người đến, muốn sống, không muốn chết, ưa lạc, ghét khổ. Có người nói với anh ta: “Này bạn, trái bí đắng này tẩm thuốc độc, nếu bạn muốn, hãy ăn. Trong khi ăn, bạn sẽ không thích thú về sắc, hương, vị. Sau khi ăn, bạn có thể chết hoặc chịu đau khổ gần như chết.” Người ấy ăn mà không suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi ăn, anh ta không thích thú về sắc, hương, vị. Sau khi ăn, anh ta chết hoặc chịu đau khổ gần như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo cũng khổ.
—Này các Tỷ-kheo, ví như bình đồng đựng nước uống, có sắc, hương, vị, nhưng tẩm thuốc độc. Rồi một người đến, muốn sống, không muốn chết, ưa lạc, ghét khổ. Có người nói với anh ta: “Này bạn, nước trong bình đồng này có sắc, hương, vị, nhưng tẩm thuốc độc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ thích thú về sắc, hương, vị. Sau khi uống, bạn có thể chết hoặc chịu đau khổ gần như chết.” Người ấy uống mà không suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, anh ta thích thú về sắc, hương, vị. Sau khi uống, anh ta chết hoặc chịu đau khổ gần như chết. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ.
—Này các Tỷ-kheo, ví như nước đái quỷ (pūtimutta) trộn nhiều loại thuốc. Rồi một người đến, mắc bệnh hoàng đản (paṇḍuroga). Có người nói với anh ta: “Này bạn, nước đái quỷ này trộn nhiều loại thuốc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ không thích thú về sắc, hương, vị. Nhưng sau khi uống, bạn sẽ được an lạc.” Người ấy uống sau khi suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, anh ta không thích thú về sắc, hương, vị. Nhưng sau khi uống, anh ta được an lạc. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại khổ, tương lai quả báo lạc.
—Này các Tỷ-kheo, ví như lạc (sappi), mật (madhu), thục tô (ghata), và đường (sakkharā) trộn lẫn với nhau. Rồi một người đến, mắc bệnh kiết lỵ (atisāra). Có người nói với anh ta: “Này bạn, đây là lạc, mật, thục tô và đường trộn lẫn. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống, bạn sẽ thích thú về sắc, hương, vị. Sau khi uống, bạn sẽ được an lạc.” Người ấy uống sau khi suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, anh ta thích thú về sắc, hương, vị. Sau khi uống, anh ta được an lạc. Này các Tỷ-kheo, Ta nói pháp hành này giống ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc.
—Này các Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, mùa thu, mùa gặt hái, bầu trời quang đãng, không mây, mặt trời mọc giữa trời, phá tan bóng tối khắp hư không, chói sáng, hực sáng, rực sáng. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo cũng lạc này, sau khi phá tan các dị thuyết của các Sa-môn, Bà-la-môn tầm thường, chói sáng, hực sáng, rực sáng.
Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn.
Hành trình đến con đường Giác ngộ