Tôi nghe như vầy:
Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại vườn của ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc). Ở đây, Đức Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
—Này các Tỷ-kheo!
—Thưa vâng, bạch Thế Tôn!
Các Tỷ-kheo cung kính đáp lời Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn thuyết giảng như sau:
(Bối cảnh và ác kiến của Phạm thiên Baka)
—Một thời, này các Tỷ-kheo, Ta ngự tại Ukkaṭṭhā (Ưu-ca-tra), trong rừng Subhagavana (Thiện Hạnh), dưới gốc cây ta-la vương (rājakasāla). Lúc bấy giờ, này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka khởi sinh ác tà kiến (pāpakaṃ micchādiṭṭhi) như sau: “Cái này là thường (nicca), cái này là thường hằng (dhuva), cái này là thường tại (sassata), cái này là toàn diện (kevala), cái này không bị biến hoại (avipariṇāmadhamma), cái này không sinh (ajāta), không già (ajara), không chết (amata), không diệt (avaya), không khởi (anuppāda); ngoài cái này, không có một giải thoát (nissaraṇa) nào khác hơn.”
—Này các Tỷ-kheo, sau khi biết tâm (cetasa cetaparivitakkam aññāsi) của Phạm thiên Baka bằng tâm của Ta, như người lực sĩ duỗi cánh tay đang co lại hay co cánh tay đang duỗi ra, Ta biến mất (antaradhāyāmi) khỏi Ukkaṭṭhā, rừng Subhagavana, dưới gốc cây ta-la vương, và hiện ra (pāturahosi) tại cõi Phạm thiên ấy. Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên Baka thấy Ta từ xa đi đến (dūrato va maṃ addasa), liền nói với Ta:
—Hãy đến, Tôn giả! Thiện lai, Tôn giả! Đã lâu nay Tôn giả mới có dịp đến đây. Này Tôn giả, cái này là thường, cái này là thường hằng, cái này là thường tại, cái này là toàn diện, cái này không bị biến hoại, cái này không sinh, không già, không chết, không diệt, không khởi; ngoài cái này, không có một giải thoát nào khác hơn.
(Phản biện của Như Lai)
—Khi được nói vậy, này các Tỷ-kheo, Ta bảo Phạm thiên Baka:
—Thật sự Phạm thiên Baka bị chìm đắm trong vô minh (avijjāgato), khi cái vô thường (anicca) lại nói là thường, cái không thường hằng (adhuva) lại nói là thường hằng, cái không thường tại (asassata) lại nói là thường tại, cái không toàn diện (akevala) lại nói là toàn diện, cái bị biến hoại (vipariṇāmadhamma) lại nói là không biến hoại; và tại chỗ có sinh (jāti), có già (jarā), có chết (maraṇa), có diệt (vyaya), có khởi (uppāda), lại nói không sinh, không già, không chết, không diệt, không khởi; có một giải thoát khác hơn (nissaraṇa añña) lại nói không có một giải thoát nào khác hơn.
(Ác ma can thiệp)
—Này các Tỷ-kheo, rồi Ác ma (Māra) nhập (anupavisi) vào một Phạm thiên quyến thuộc (brahmapārisajja) và nói với Ta:
—Này Tỷ-kheo, chớ can thiệp (mā kho tvaṃ imaṃ paripantha) vào đây! Này Tỷ-kheo, Phạm thiên này là Đại Phạm thiên (Mahābrahmā), Toàn năng (abhibhū), Tối thắng (anabhibhūto), Biến nhãn (cakkhumā), Thượng đế (vasavattī), Sáng tạo chủ (kattā), Hóa sinh chủ (nimmitā), Đại tôn (seṭṭho), Chúa tể mọi định mạng (sajitā), Tự tại (vasī), Tổ phụ (pitā) của các chúng sinh đã và sẽ sinh (bhūtabhavyassa). Này Tỷ-kheo, thuở xưa có các Sa-môn, Bà-la-môn phỉ báng (paribhāsi) địa đại (pathavī), ghê tởm (jiucchati) địa đại; phỉ báng thủy đại (āpo), ghê tởm thủy đại; phỉ báng hỏa đại (tejo), ghê tởm hỏa đại; phỉ báng phong đại (vāyo), ghê tởm phong đại; phỉ báng chúng sinh (bhūta), ghê tởm chúng sinh; phỉ báng chư Thiên (deva), ghê tởm chư Thiên; phỉ báng Sanh chủ (Pajāpati), ghê tởm Sanh chủ; phỉ báng Phạm thiên (Brahmā), ghê tởm Phạm thiên—sau khi thân hoại mạng chung (kāyassa bhedā parammaraṇā), họ an trú (patiṭṭhitā) vào thân ti tiện (hīnāya dhātuyā). Này Tỷ-kheo, những Sa-môn, Bà-la-môn khác tán thán (sakkari) địa đại, hoan hỷ (abhinandi) địa đại; tán thán thủy đại, hoan hỷ thủy đại; tán thán hỏa đại, hoan hỷ hỏa đại; tán thán phong đại, hoan hỷ phong đại; tán thán chúng sinh, hoan hỷ chúng sinh; tán thán chư Thiên, hoan hỷ chư Thiên; tán thán Sanh chủ, hoan hỷ Sanh chủ; tán thán Phạm thiên, hoan hỷ Phạm thiên—sau khi thân hoại mạng chung, họ an trú vào thân vi diệu (paṇītāya dhātuyā). Này Tỷ-kheo, vì thế ta nói: “Phàm Phạm thiên nói gì với ông, ông hãy làm theo (karohi). Chớ đi quá xa (mā atikkamittha) lời Phạm thiên. Nếu ông đi quá xa lời Phạm thiên, thì như người dùng gậy đánh thần tài (siri) đang đến gần, hay như người rơi vào vực thẳm (papāta) mà tay chân không bám được đất (alabbhamāneva bhūmiyaṃ hatthehi ca pādehi ca). Như vậy, này Tỷ-kheo, sự việc sẽ xảy ra với ông. Phàm Phạm thiên nói gì, ông hãy làm theo. Ông có thấy chúng Phạm thiên đang ngồi đây không?”
—Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma dẫn (nīyati) Ta đến chúng Phạm thiên (brahmapārisajja). Khi được nói vậy, Ta bảo Ác ma:
—Này Ác ma, Ta biết ngươi (pajānāmi)! Chớ nghĩ: “Vị này không biết ta.” Ngươi là Ác ma! Này Ác ma, Phạm thiên, Phạm thiên chúng (brahmaparisa), và Phạm thiên quyến thuộc (brahmapārisajja) đều nằm trong tay ngươi (hatthagata), trong quyền lực ngươi (vasagata). Này Ác ma, ngươi nghĩ: “Mong vị này cũng nằm trong tay ta, trong quyền lực ta!” Nhưng này Ác ma, Ta không nằm trong tay ngươi, không nằm trong quyền lực ngươi.
(Đối thoại với Phạm thiên Baka)
—Này các Tỷ-kheo, khi được nói vậy, Phạm thiên Baka bảo Ta:
—Này Tôn giả, cái gì thường, ta nói là thường; cái gì thường hằng, ta nói là thường hằng; cái gì thường tại, ta nói là thường tại; cái gì toàn diện, ta nói là toàn diện; cái gì không biến hoại, ta nói là không biến hoại. Ở đây, cái gì không sinh, không già, không chết, không diệt, không khởi, ta nói là không sinh, không già, không chết, không diệt, không khởi; và vì không có giải thoát nào khác hơn, ta nói không có giải thoát nào khác hơn. Này Tỷ-kheo, xưa kia có các Sa-môn, Bà-la-môn trước ông, tu hành khổ hạnh (tapassī) suốt đời họ (yāvatāyukaṃ), họ phải biết: “Nếu có giải thoát khác, thì biết có giải thoát khác; nếu không, thì biết không có giải thoát khác.” Này Tỷ-kheo, ta nói với ông: Ông sẽ không thấy giải thoát nào khác, dù phải chịu mệt nhọc (khiḷati) và khổ cực (dukkham). Này Tỷ-kheo, nếu ông y trước (upādiyati) địa đại, ông sẽ gần ta (santike me), trú trong lãnh địa ta (gocare me), làm theo ý ta (kātabbaṃ me), bị đứng ngoài lề (parikkhīṇa). Nếu ông y trước thủy đại… hỏa đại… phong đại… chúng sinh… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên, ông sẽ gần ta, trú trong lãnh địa ta, làm theo ý ta, bị đứng ngoài lề.
—Ta đáp: Này Phạm thiên, Ta biết điều đó. Nếu Ta y trước địa đại… thủy đại… hỏa đại… phong đại… chúng sinh… chư Thiên… Sanh chủ… Phạm thiên, Ta sẽ gần ông, trú trong lãnh địa ông, làm theo ý ông, bị đứng ngoài lề. Này Phạm thiên, Ta còn biết sanh thú (gati) và quang vinh (yaso) của ông: “Phạm thiên Baka có thần lực (iddhānubhāva) như vậy, quyền lực (vasānubhāva) như vậy, uy lực (ānubhāva) như vậy.”
—Phạm thiên Baka hỏi: Này Tỷ-kheo, ông biết sanh thú và quang vinh của ta thế nào mà nói: “Phạm thiên Baka có thần lực như vậy, quyền lực như vậy, uy lực như vậy”?
—Ta đáp:
“Như nhật nguyệt lưu chuyển,
Sáng chói khắp mười phương,
Như vậy mười Thiên giới,
Dưới uy lực của ông.
Ông biết chỗ cao thấp,
Có dục và không dục,
Hữu này và hữu kia,
Chỗ đến đi hữu tình.”
—Như vậy, này Phạm thiên, Ta biết sanh thú và quang vinh của ông: “Phạm thiên Baka có thần lực như vậy, quyền lực như vậy, uy lực như vậy.” Này Phạm thiên, có ba loại chư Thiên ông không biết (na jānāti), không thấy (na passati), nhưng Ta biết, Ta thấy. Có chư Thiên Quang Âm (Ābhassara) mà ông từng từ đó mạng chung (cavati) và sinh nơi đây (upapajjati). Vì ông trú lâu ở đây, ông quên mất, nên không biết, không thấy, còn Ta biết, Ta thấy. Như vậy, này Phạm thiên, về thượng trí (abhiññā), Ta không ngang bằng (sama) ông, huống chi thấp hơn (hīna); do đó, Ta thù thắng (paṇīta) hơn ông. Này Phạm thiên, lại có chư Thiên Biến Tịnh (Subhakiṇṇa)… chư Thiên Quảng Quả (Vehapphala) mà ông không biết, không thấy, nhưng Ta biết, Ta thấy. Như vậy, về thượng trí, Ta không ngang bằng ông, huống chi thấp hơn; do đó, Ta thù thắng hơn ông.
—Này Phạm thiên, Ta biết địa đại (pathavī) từ bản chất địa đại (pathavīdhātu), đến giới vực (pariyanta) địa đại, nhưng không lãnh thọ (upādiyati) địa tánh (pathavīsabhāva). Ta không nghĩ: “Ta là địa đại, Ta trong địa đại, Ta từ địa đại, địa đại là của Ta,” và Ta không tôn trọng (sakkaroti) địa đại. Như vậy, về thượng trí, Ta không ngang bằng ông, huống chi thấp hơn; do đó, Ta thù thắng hơn ông. Này Phạm thiên, Ta biết thủy đại (āpo)… hỏa đại (tejo)… phong đại (vāyo)… chúng sinh (bhūta)… chư Thiên (deva)… Sanh chủ (Pajāpati)… Phạm thiên (Brahmā)… Quang Âm (Ābhassara)… Biến Tịnh (Subhakiṇṇa)… Quảng Quả (Vehapphala)… Thắng Giải (Abhibhū)… tất cả (sabba) từ bản chất tất cả, đến giới vực tất cả, nhưng không lãnh thọ tất cả tánh (sabbasabhāva). Ta không nghĩ: “Ta là tất cả, Ta trong tất cả, Ta từ tất cả, tất cả là của Ta,” và Ta không tôn trọng tất cả. Như vậy, về thượng trí, Ta không ngang bằng ông, huống chi thấp hơn; do đó, Ta thù thắng hơn ông.
(Thử thách thần thông)
—Phạm thiên Baka nói: Này Tôn giả, nếu đối với tất cả, Tôn giả không lãnh thọ tất cả tánh, thì với Tôn giả, nó trở thành trống không (suñña), trống rỗng (tuccha), thức là phi sở kiến (anidassana), không biên tế (ananta), chói sáng tất cả (sabbato pabha). Nếu không thể lãnh thọ địa đại qua địa tánh… thủy đại qua thủy tánh… hỏa đại qua hỏa tánh… phong đại qua phong tánh… chúng sinh qua chúng sinh tánh… chư Thiên qua chư Thiên tánh… Sanh chủ qua Sanh chủ tánh… Phạm thiên qua Phạm thiên tánh… Quang Âm qua Quang Âm tánh… Biến Tịnh qua Biến Tịnh tánh… Quảng Quả qua Quảng Quả tánh… Thắng Giải qua Thắng Giải tánh… tất cả qua tất cả tánh—này Tôn giả, nay ta sẽ biến mất (antaradhāyissāmi) trước mặt Tôn giả.
—Ta đáp: Này Phạm thiên, hãy biến mất trước mặt Ta nếu ông có thể (sace pahosi)!
—Phạm thiên Baka nói: Ta sẽ biến mất trước mặt Sa-môn Gotama! Ta sẽ biến mất trước mặt Sa-môn Gotama! Nhưng ông không biến mất được (na sakkhi antaradhāyituṃ).
—Này các Tỷ-kheo, khi ấy, Ta bảo Phạm thiên Baka: Này Phạm thiên, Ta sẽ biến mất trước mặt ông.
—Phạm thiên đáp: Này Tôn giả, hãy biến mất trước mặt ta nếu Tôn giả có thể!
—Rồi này các Tỷ-kheo, Ta thực hiện thần thông (iddhi) để Phạm thiên, Phạm thiên chúng, và Phạm thiên quyến thuộc chỉ nghe tiếng Ta (ghoso) mà không thấy Ta (adassana), Ta biến mất và nói bài kệ:
“Thấy nguy hiểm trong hữu,
Từ hữu, tìm phi hữu,
Ta không tôn trọng hữu,
Không hỷ, không chấp trước.”
(Phản ứng của Phạm thiên và Ác ma)
—Này các Tỷ-kheo, Phạm thiên, Phạm thiên chúng, và Phạm thiên quyến thuộc khởi tâm vi diệu hy hữu (acchariyabbhutacitta), nói: “Thật vi diệu thay (acchariya), chư Tôn giả! Thật hy hữu thay (abbhuta), chư Tôn giả! Đại thần lực (mahiddhika), đại uy lực (mahānubhāva) của Sa-môn Gotama! Từ trước đến nay chưa từng thấy, chưa từng nghe một Sa-môn hay Bà-la-môn nào khác có đại thần lực, đại uy lực như Sa-môn Gotama, Thích tử, xuất gia từ dòng họ Sakya. Đối với quần chúng ái trước hữu (bhavarata), lạc nhiễm hữu (bhavasammudita), hoan hỷ trong hữu (abhinandati), Ngài đã nhổ hữu lên tận gốc (bhavam samūlaghātaṃ).”
—Rồi này các Tỷ-kheo, Ác ma nhập vào một Phạm thiên quyến thuộc và nói với Ta:
—Này Tôn giả, nếu ông biết (jānāti) như vậy, giác ngộ (buddha) như vậy, chớ hướng dẫn (desesi) đệ tử, chớ hướng dẫn người xuất gia, chớ thuyết pháp (dhammaṃ desesi) cho đệ tử, chớ thuyết pháp cho người xuất gia, chớ ái luyến (nikkantaka) đệ tử, chớ ái luyến người xuất gia. Này Tỷ-kheo, trước ông có các Sa-môn, Bà-la-môn tự xưng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, họ hướng dẫn đệ tử, thuyết pháp, ái luyến đệ tử—sau khi thân hoại mạng chung, họ an trú trong thân hạ liệt (hīnāya dhātuyā). Lại có các Sa-môn, Bà-la-môn tự xưng A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, không hướng dẫn đệ tử, không thuyết pháp, không ái luyến đệ tử—sau khi thân hoại mạng chung, họ an trú trong thân vi diệu (paṇītāya dhātuyā). Này Tỷ-kheo, ta nói: “Này Tôn giả, chớ phiền lao (kilamati) cực nhọc (dukkha), hãy sống lạc trú hiện tại (diṭṭhadhammasukhavihāra). Chớ nêu rõ việc thiện (kusala), chớ giảng dạy (desesi) người khác!”
—Khi được nói vậy, Ta bảo Ác ma:
—Này Ác ma, Ta biết ngươi! Chớ nghĩ: “Vị này không biết ta.” Ngươi là Ác ma! Này Ác ma, ngươi nói vậy không phải vì thương tưởng (anukampā) Ta, mà vì không thương tưởng Ta. Ngươi nghĩ: “Những ai được Sa-môn Gotama thuyết pháp, họ sẽ thoát (nissaranti) khỏi tầm tay (vasa) của ta.” Này Ác ma, những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không phải Chánh Đẳng Giác (asammāsambuddha) mà tự xưng Chánh Đẳng Giác. Này Ác ma, Ta là Chánh Đẳng Giác và tự xưng Chánh Đẳng Giác. Này Ác ma, Như Lai có thuyết pháp hay không thuyết pháp cho đệ tử, Như Lai vẫn là Như Lai. Có hướng dẫn hay không hướng dẫn đệ tử, Như Lai vẫn là Như Lai. Vì sao? Này Ác ma, các lậu hoặc (āsava) tương ứng phiền não (saṃkilesika), đưa đến tái sinh (ponobbhavika), gây phiền lụy (vighāta), đem quả khổ (dukkhavipāka), dẫn đến sinh, già, chết trong tương lai—những lậu hoặc ấy đã được Ta diệt trừ (khīṇa), cắt tận gốc (samucchinnamūla), làm như cây ta-la (tālavatthu), không thể tái sinh (anabhāvaṅkata), không khởi lại trong tương lai (anuppādadhamma). Ví như cây ta-la bị chặt đứt gốc, không thể lớn lại; cũng vậy, các lậu hoặc của Ta đã được diệt trừ, cắt tận gốc, làm như cây ta-la, không thể tái sinh, không khởi lại trong tương lai.
(Kết luận)
—Như vậy, vì Ác ma thất bại (na samāpajjati), không thuyết phục được Ta, và vì có lời mời từ Phạm thiên, nên bài trả lời này được gọi là Kinh Phạm Thiên Cầu Thỉnh (Brahmanimantanika Sutta).
Đức Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Đức Thế Tôn.
Hành trình đến con đường Giác ngộ