Logo Thư Viện Phật Giáo
Kinh Không Gì Chuyển Hướng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 60

Kinh Không Gì Chuyển Hướng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 60

Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo, và đến tại Sala, một làng của các Bà-la-môn thuộc dân chúng Kosala.

Lúc bấy giờ, các Bà-la-môn gia chủ ở Sala được nghe tin đồn như sau:
“Sa-môn Gotama, thuộc dòng họ Thích-ca, xuất gia từ gia tộc Thích-ca, hiện đang du hành giữa dân chúng Kosala cùng với Đại chúng Tỷ-kheo, đã đến Sala.”

Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền tụng về Sa-môn Gotama:
“Ngài là bậc Thế Tôn, bậc A-la-hán, bậc Chánh Đẳng Giác, bậc đầy đủ Minh và Hạnh, bậc Thiện Thệ, bậc Thế Gian Giải, bậc Vô Thượng Sĩ, bậc Điều Ngự Trượng Phu, bậc Thiên Nhân Sư, bậc Phật, bậc Thế Tôn.
Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này, cùng với thiên giới, ma giới, phạm thiên giới, với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư thiên và loài người.
Sau khi chứng ngộ, Ngài tuyên thuyết điều Ngài đã chứng ngộ.
Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, trọn vẹn.
Ngài chỉ dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn trong sạch.
Thật tốt đẹp thay khi được chiêm ngưỡng một bậc A-la-hán như vậy!”

Rồi các Bà-la-môn gia chủ ở Sala đi đến chỗ Thế Tôn. Sau khi đến,

  • Có người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
  • Có người chào đón, hỏi thăm Thế Tôn, sau khi chào đón, hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên.
  • Có người chắp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.
  • Có người xưng tên họ rồi ngồi xuống một bên.
  • Có người lặng lẽ ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với các Bà-la-môn gia chủ ở Sala đang ngồi xuống một bên:

— Này các Gia chủ, các ông có vị Đạo sư nào khả ý, mà các ông có lý do để đặt trọn lòng tin không?

Các Gia chủ thưa:

— Bạch Thế Tôn, chúng con không có một vị Đạo sư khả ý nào để có thể đặt trọn lòng tin.

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, nếu các ông không có một vị Đạo sư khả ý nào, thì hãy lấy pháp không gì chuyển hướng này mà thực hành.
Này các Gia chủ, pháp không gì chuyển hướng này, nếu được khéo thọ trì, khéo thành tựu, sẽ đưa đến hạnh phúc và an lạc lâu dài cho các ông.

Và này các Gia chủ, thế nào là pháp không gì chuyển hướng?

I. Thuyết hư vô

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Không có kết quả của bố thí, không có kết quả của lễ hy sinh, không có kết quả của tế tự, không có kết quả, không có quả báo của các nghiệp thiện hay nghiệp ác, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loài hóa sanh, trên đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, và những vị này tuyên bố điều họ đã chứng ngộ với thắng trí về đời này và đời sau.”

Nhưng này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói điều trái ngược với các Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Những vị này nói như sau: “Có kết quả của bố thí, có kết quả của lễ hy sinh, có kết quả của tế tự, có kết quả, có quả báo của các nghiệp thiện và nghiệp ác, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loài hóa sanh, trên đời có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, và những vị này tuyên bố điều họ đã chứng ngộ với thắng trí về đời này và đời sau.”

Này các Gia chủ, các ông nghĩ thế nào? Những Sa-môn, Bà-la-môn ấy có phải đã nói lời đối nghịch với nhau không?

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

— Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Không có kết quả của bố thí, không có kết quả của lễ hy sinh, không có kết quả của tế tự, không có kết quả, không có quả báo của các nghiệp thiện hay nghiệp ác, không có đời này, không có đời sau, không có mẹ, không có cha, không có các loài hóa sanh, trên đời không có các Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, và những vị này tuyên bố điều họ đã chứng ngộ với thắng trí về đời này và đời sau,” thì đối với những vị ấy, sự kiện này sẽ xảy ra: sau khi từ bỏ ba thiện hạnh, thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh, và chấp nhận ba ác hạnh, thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh, các vị ấy sẽ thực hành theo đó.

Vì sao vậy? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự ô uế của các bất thiện pháp, không thấy sự xuất ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

Bởi vì có đời sau, nên nếu ai có quan điểm rằng: “Không có đời sau,” thì đó là tà kiến. Bởi vì có đời sau, nên nếu ai suy nghĩ rằng: “Không có đời sau,” thì đó là tà tư duy. Bởi vì có đời sau, nên nếu ai nói rằng: “Không có đời sau,” thì đó là tà ngữ. Bởi vì có đời sau, nên nếu ai nói rằng: “Không có đời sau,” thì lời nói ấy tự mâu thuẫn, đối nghịch với các bậc A-la-hán đã tự thân chứng ngộ có đời sau. Bởi vì có đời sau, nên nếu ai thuyết phục người khác rằng: “Không có đời sau,” thì sự thuyết phục ấy chống lại Diệu Pháp. Và vì sự thuyết phục ấy chống lại Diệu Pháp, nên người ấy khen mình chê người.

Như vậy, khi thiện giới chưa bị từ bỏ, ác giới đã được chấp trì. Và từ tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống lại Diệu Pháp, sự khen mình chê người, các ác, bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến.

Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu không có đời sau, thì vị này sau khi thân hoại mạng chung, tự ngã cảm thấy an toàn; nếu có đời sau, thì vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn cho đời sau không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì vị này, ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách: “Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương hư vô luận.” Còn nếu có đời sau, thì vị này cả hai mặt đều gặp bất hạnh: ngay trong hiện tại bị những người có trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, pháp “không gì chuyển hướng” này bị chấp trì, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ chấp nhận một phía và bỏ qua phía thiện pháp.

Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Có kết quả của bố thí, có kết quả của lễ hy sinh, có kết quả của tế tự, có kết quả, quả báo của các nghiệp thiện và nghiệp ác, có đời này, có đời sau, có mẹ, có cha, có các loài hóa sanh, trên đời có những Sa-môn, Bà-la-môn chân chánh hành trì, chân chánh thành tựu, và những vị này tuyên bố về đời này và về đời sau sau khi đã chứng ngộ với thắng trí,” thì đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra: sau khi từ bỏ ba ác pháp này — thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh — và sau khi chấp nhận ba thiện pháp này — thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh — các vị này thực hành theo đó.

Vì sao vậy? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, và thấy sự thoát ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

Bởi vì có đời sau, nếu có quan điểm nào nói rằng có đời sau, thì đó là chánh kiến. Bởi vì có đời sau, nếu có ai suy tư rằng có đời sau, thì đó là chánh tư duy. Bởi vì có đời sau, nếu có ai nói rằng có đời sau, thì đó là chánh ngữ. Bởi vì có đời sau, nếu có ai nói rằng có đời sau, thì lời nói ấy không tự mâu thuẫn, không đối nghịch với các bậc A-la-hán đã biết được có đời sau. Bởi vì có đời sau, nếu có ai thuyết phục người khác rằng có đời sau, thì sự thuyết phục ấy thuận với Diệu Pháp, và vì sự thuyết phục ấy thuận với Diệu Pháp, nên vị ấy không khen mình chê người.

Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đã được chấp trì. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với Diệu Pháp, sự không khen mình chê người — như vậy, những thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên chánh kiến.

Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu có đời sau, thì vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn cho đời sau không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì vị này ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán: “Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương hữu luận.” Còn nếu có đời sau, thì vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán; sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy, “pháp không gì chuyển hướng” này được chấp trì, được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía, và bỏ qua phía bất thiện pháp.

II. Thuyết vô tác dụng

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây ác não hay khiến người gây ác não, tự mình gây ra sợ hãi hay khiến người khác gây ra sợ hãi; sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chặn đường cướp giật, tư thông với vợ người, nói láo — hành động như vậy không có tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên mặt đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt, cũng không vì vậy mà có tội ác, không có sự tiếp nối của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng, giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, cũng không vì vậy mà có tội ác, không có sự tiếp nối của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng, bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, cũng không vì vậy mà có phước báo, không có sự tiếp nối của phước báo.”

Này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói những lời đối nghịch với các Sa-môn, Bà-la-môn kia. Các vị này nói như sau: “Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây ác não hay khiến người gây ác não, tự mình gây ra sợ hãi hay khiến người khác gây ra sợ hãi; sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chặn đường cướp giật, tư thông với vợ người, nói láo — hành động như vậy có tội ác. Nếu lấy một bánh xe sắc bén giết hại tất cả chúng sanh trên mặt đất thành một đống thịt, thành một chồng thịt, thì do nhân duyên ấy có tội ác, có sự tiếp nối của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Nam sông Hằng, giết hại, tàn sát, chém giết, khiến người chém giết, đốt nấu, khiến người đốt nấu, thì do nhân duyên ấy có tội ác, có sự tiếp nối của tội ác. Nếu có người đi trên bờ phía Bắc sông Hằng, bố thí, khiến người bố thí, tế lễ, khiến người tế lễ, thì do nhân duyên ấy có phước báo, có sự tiếp nối của phước báo. Bố thí, điều phục, tự chế, nói lời chân thật — đều có phước báo, đều có sự tiếp nối của phước báo.”

Này các Gia chủ, các ông nghĩ thế nào? Những Sa-môn, Bà-la-môn ấy có phải đã nói lời đối nghịch với nhau không?

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

— Ở đây, này các Gia chủ, có những Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây ác não hay khiến người gây ác não, tự mình gây ra sợ hãi hay khiến người khác gây ra sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chặn đường cướp giật, tư thông với vợ người, nói láo — hành động như vậy không đưa đến phước báo.”

Đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra: sau khi từ bỏ ba thiện pháp — thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành — và sau khi chấp nhận ba ác pháp — thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành — các vị này thực hành theo đó.

Vì sao vậy? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thấy được sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, và không thấy được sự xuất ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

Vì rằng có tác dụng, nếu có quan điểm nào nói rằng không có tác dụng, thì đó là tà kiến. Vì rằng có tác dụng, nếu ai suy tư rằng không có tác dụng, thì đó là tà tư duy. Vì rằng có tác dụng, nếu ai nói rằng không có tác dụng, thì đó là tà ngữ. Vì rằng có tác dụng, nếu ai nói rằng không có tác dụng, thì lời nói ấy tự mâu thuẫn, đối nghịch với các bậc A-la-hán đã biết rõ có tác dụng. Vì rằng có tác dụng, nếu có ai thuyết phục người khác rằng không có tác dụng, thì sự thuyết phục ấy chống lại Diệu Pháp, và vì sự thuyết phục ấy chống lại Diệu Pháp, nên người ấy khen mình chê người. Như vậy, trước khi thiện giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đã được chấp trì. Và tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống lại Diệu Pháp, sự khen mình chê người — như vậy, những ác, bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến.

Ở đây, này các Gia chủ, người có trí suy nghĩ như sau: Nếu không có tác dụng, thì vị này, sau khi thân hoại mạng chung, tự ngã cảm thấy an toàn; nếu có tác dụng, thì vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn cho tác dụng không có đi nữa, nếu lời nói của các vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì vị này, ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách: “Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương không tác dụng.” Còn nếu có tác dụng, thì vị này cả hai mặt đều gặp sự bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, pháp “không gì chuyển hướng” này bị chấp trì, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ chấp nhận một phía và bỏ qua phía thiện pháp.

Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Tự mình làm hay khiến người làm, chém giết hay khiến người chém giết, đốt nấu hay khiến người đốt nấu, gây phiền muộn hay khiến người gây phiền muộn, gây ác não hay khiến người gây ác não, tự mình gây ra sợ hãi hay khiến người khác gây ra sợ hãi, sát sanh, lấy của không cho, phá cửa nhà mà vào, cướp bóc, đánh cướp một nhà lẻ loi, chặn đường cướp giật, tư thông với vợ người, nói láo — hành động như vậy có đưa đến phước báo,” thì đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra: sau khi từ bỏ ba ác pháp — thân ác hạnh, khẩu ác hạnh, ý ác hạnh — và sau khi chấp nhận ba thiện pháp — thân thiện hạnh, khẩu thiện hạnh, ý thiện hạnh — các vị này thực hành theo đó.

Vì sao vậy? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy được sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, và thấy được sự xuất ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

Vì rằng có tác dụng, nếu có quan điểm nào nói rằng có tác dụng, thì đó là chánh kiến. Vì rằng có tác dụng, nếu ai suy tư rằng có tác dụng, thì đó là chánh tư duy. Vì rằng có tác dụng, nếu ai nói rằng có tác dụng, thì đó là chánh ngữ. Vì rằng có tác dụng, nếu ai nói rằng có tác dụng, thì lời nói ấy không tự mâu thuẫn, không đối nghịch với các bậc A-la-hán đã tự thân chứng ngộ có tác dụng. Vì rằng có tác dụng, nếu ai thuyết phục người khác rằng có tác dụng, thì sự thuyết phục ấy thuận với Diệu Pháp, và vì sự thuyết phục ấy thuận với Diệu Pháp, nên vị ấy không khen mình chê người.

Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đã được chấp trì. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với Diệu Pháp, sự không khen mình chê người — như vậy, những thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên chánh kiến.

Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu có tác dụng, thì vị này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn cho tác dụng không có đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì vị này, ngay trong hiện tại, được những người có trí tán thán: “Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương có tác dụng.” Còn nếu có tác dụng, thì vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán; sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy, pháp “không gì chuyển hướng” này được chấp trì, được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía và bỏ qua phía bất thiện pháp.

III. Thuyết vô nhân duyên

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô nhân vô duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô nhân vô duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh. Không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu tình, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không tự tại, không có lực, không có tinh tấn. Các chúng sanh ấy bị dắt dẫn, bị chi phối bởi định mệnh, bởi sự tình cờ, bởi bản tánh của họ. Các chúng sanh ấy hưởng thọ khổ lạc theo sáu loại thác sanh của họ.”

Này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch với các Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Những vị này nói như sau: “Có nhân, có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình không bị nhiễm ô. Có nhân, có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình không được thanh tịnh. Có lực, có tinh tấn, có nhân lực, có sự cố gắng của người. Tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu tình, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không phải là không tự tại, không phải là không có lực, không phải là không có tinh tấn. Không phải các chúng sanh ấy bị dẫn dắt, bị chi phối bởi định mệnh, bởi sự tình cờ, bởi bản tánh của họ. Không phải họ hưởng thọ khổ lạc theo sáu loại thác sanh của họ.”

Này các Gia chủ, các ông nghĩ thế nào? Có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã nói lời mâu thuẫn, đối nghịch với nhau không?

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

— Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; vô nhân vô duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô. Không có nhân, không có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; vô nhân vô duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh. Không có lực, không có tinh tấn, không có nhân lực, không có sự cố gắng của người. Tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu tình, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không tự tại, không có lực, không có tinh tấn. Các chúng sanh ấy bị dắt dẫn, chi phối bởi định mệnh, bởi sự tình cờ, bởi bản tánh của họ. Các chúng sanh ấy hưởng thọ khổ lạc theo sáu loại thác sanh của họ,” thì đối với những vị ấy, sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra: sau khi từ bỏ ba thiện pháp — thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành — và sau khi chấp nhận ba ác pháp — thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành — các vị này sẽ thực hành theo đó.

Vì sao vậy? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn ấy không thấy được sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, và không thấy được sự xuất ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

Vì rằng có nhân, nếu có quan điểm nào nói rằng không có nhân, thì đó là tà kiến. Vì rằng có nhân, nếu ai suy tư rằng không có nhân, thì đó là tà tư duy. Vì rằng có nhân, nếu ai nói rằng không có nhân, thì đó là tà ngữ. Vì rằng có nhân, nếu ai nói rằng không có nhân, thì lời nói ấy tự mâu thuẫn, đối nghịch với các bậc A-la-hán đã biết được có nhân. Vì rằng có nhân, nếu có ai thuyết phục người khác rằng không có nhân, thì sự thuyết phục ấy chống lại Diệu Pháp, và vì sự thuyết phục ấy chống lại Diệu Pháp, nên người ấy khen mình chê người.

Như vậy, trước khi thiện giới của người ấy bị từ bỏ, các ác giới đã được chấp trì. Và tà kiến, tà tư duy, tà ngữ, sự đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục chống lại Diệu Pháp, sự khen mình chê người — như vậy, những ác bất thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên tà kiến.

Ở đây, này các Gia chủ, người có trí suy nghĩ như sau: Nếu không có nhân, thì vị này, sau khi thân hoại mạng chung, tự cảm thấy an toàn; nếu có nhân, thì vị này, sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nếu muốn cho không có nhân đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì vị này, ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách: “Người này theo ác giới, có tà kiến, chủ trương không nhân.” Còn nếu có nhân, thì vị này cả hai mặt đều gặp sự bất hạnh: ngay trong hiện tại, bị những người có trí quở trách; sau khi thân hoại mạng chung, sẽ sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Như vậy, pháp “không gì chuyển hướng” này bị chấp trì, bị thực hành sai lạc, bởi vị này chỉ chấp nhận một phía và bỏ qua phía thiện pháp.

Ở đây, này các Gia chủ, những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Có nhân, có duyên, các loài hữu tình bị nhiễm ô; có nhân, có duyên, các loài hữu tình được thanh tịnh; có lực, có tinh tấn, có nhân lực, có sự cố gắng của người; tất cả loài chúng sanh, tất cả loài hữu tình, tất cả sanh loại, tất cả sanh mạng đều không phải không tự tại, không phải không có lực, không phải không có tinh tấn; không phải các chúng sanh ấy bị dẫn dắt, bị chi phối bởi định mệnh, bởi sự tình cờ, bởi bản tánh của họ; không phải họ hưởng thọ khổ lạc theo sáu loại thác sanh của họ,” thì đối với những vị này, sự kiện này sẽ chờ đợi xảy ra: sau khi từ bỏ ba ác pháp — thân ác hành, khẩu ác hành, ý ác hành — và sau khi chấp nhận ba thiện pháp — thân thiện hành, khẩu thiện hành, ý thiện hành — các vị này thực hành theo đó.

Vì sao vậy? Vì những Sa-môn, Bà-la-môn này thấy được sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự cấu uế của các bất thiện pháp, và thấy được sự xuất ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

Vì rằng có nhân, nếu có quan điểm nào nói rằng có nhân, thì đó là chánh kiến. Vì rằng có nhân, nếu ai suy tư rằng có nhân, thì đó là chánh tư duy. Vì rằng có nhân, nếu ai nói rằng có nhân, thì đó là chánh ngữ. Vì rằng có nhân, nếu ai nói rằng có nhân, thì lời nói ấy không tự mâu thuẫn, không đối nghịch với các bậc A-la-hán đã biết được có nhân. Vì rằng có nhân, nếu ai thuyết phục người khác rằng có nhân, thì sự thuyết phục ấy thuận với Diệu Pháp, và vì sự thuyết phục ấy thuận với Diệu Pháp, nên vị ấy không khen mình chê người.

Như vậy, trước khi ác giới của vị ấy được từ bỏ, các thiện giới đã được chấp trì. Và chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, sự không đối nghịch với các bậc Thánh, sự thuyết phục thuận với Diệu Pháp, sự không khen mình chê người — như vậy, những thiện pháp sai biệt này khởi lên do duyên chánh kiến.

Ở đây, này các Gia chủ, vị có trí suy nghĩ như sau: Nếu có nhân, thì vị này sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Nếu muốn cho không có nhân đi nữa, nếu lời nói của các Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì vị này ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán: “Người này theo thiện giới, có chánh kiến, chủ trương có nhân.” Còn nếu có nhân, thì vị này cả hai mặt đều gặp sự may mắn: ngay trong hiện tại được những người có trí tán thán; sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh lên thiện thú, thiên giới, cõi đời này. Như vậy, pháp “không gì chuyển hướng” này được chấp trì, được thực hành đúng đắn, bởi vị này chấp nhận cả hai phía và bỏ qua phía bất thiện pháp.

IV. Thuyết Không có cõi vô sắc

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Tuyệt đối không thể có cõi vô sắc.”

Lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch với các Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Các vị này nói như sau: “Chắc chắn có cõi vô sắc.”

Này các Gia chủ, các ông nghĩ thế nào? Có phải những vị Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch với nhau không?

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

— Ở đây, này các Gia chủ, một người có trí suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Tuyệt đối không thể có cõi vô sắc,’ ta không thấy như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Chắc chắn có cõi vô sắc,’ ta cũng không biết như vậy. Và nếu ta không biết, không thấy, mà chỉ chấp nhận một phía và tuyên bố: ‘Đây là sự thật, ngoài ra đều là mê lầm,’ thì điều đó không xứng đáng với ta.”

“Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Tuyệt đối không thể có cõi vô sắc,’ nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì sự kiện này xảy ra: ta chắc chắn sẽ tái sanh vào chỗ của các chư Thiên có sắc, do ý sở thành.”

“Còn những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Chắc chắn có cõi vô sắc,’ nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì sự kiện này xảy ra: ta chắc chắn sẽ tái sanh vào chỗ của các chư Thiên vô sắc, do tưởng sở thành.”

“Do duyên với cái gì có sắc, chấp gậy, chấp kiếm, đấu tranh, tranh luận, tranh cãi, luận tranh, kháng tranh, ly gián ngữ, vọng ngữ — tất cả những sự việc này đều được thấy. Nhưng trong cõi vô sắc, sẽ không có những sự việc này.”

Do suy tư như vậy, vị ấy thành tựu sự yểm ly, sự ly tham, sự diệt tận các sắc pháp.

V. Thuyết Không có Đoạn diệt

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, có một số Sa-môn, Bà-la-môn có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: “Không thể có một sự hữu diệt (Bhavanirodha) toàn diện.”

Này các Gia chủ, lại có một số Sa-môn, Bà-la-môn nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch với các Sa-môn, Bà-la-môn ấy. Các vị này nói như sau: “Có thể có một sự hữu diệt toàn diện.”

Này các Gia chủ, các ông nghĩ thế nào? Có phải những Sa-môn, Bà-la-môn ấy đã nói những lời mâu thuẫn, đối nghịch với nhau không?

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Thế Tôn dạy:

— Ở đây, này các Gia chủ, một người có trí suy nghĩ như sau: “Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Không thể có sự hữu diệt toàn diện,’ ta không thấy như vậy. Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Có thể có một sự hữu diệt toàn diện,’ ta cũng không biết như vậy. Và nếu ta không biết, không thấy, mà chỉ chấp nhận một bên và tuyên bố: ‘Đây là sự thật, ngoài ra đều là mê lầm,’ thì điều đó không xứng đáng với ta.”

“Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Không thể có một sự hữu diệt toàn diện,’ nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì sự kiện này xảy ra: ta chắc chắn sẽ tái sanh vào chỗ các chư Thiên vô sắc, do tưởng sở thành.”

“Còn những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Có thể có một sự hữu diệt toàn diện,’ nếu lời nói của những Sa-môn, Bà-la-môn ấy là đúng sự thật, thì sự kiện này xảy ra: ta chắc chắn sẽ nhập Niết-bàn ngay trong hiện tại.”

“Những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Không thể có một sự hữu diệt toàn diện,’ thì quan điểm này của họ gần với tham ái, gần với kiết sử, gần với ái lạc, gần với chấp trước, gần với chấp thủ.”

“Còn những Sa-môn, Bà-la-môn nào có lập thuyết như sau, có quan điểm như sau: ‘Có thể có sự hữu diệt toàn diện,’ thì quan điểm này của họ gần với ly tham, gần với không kiết sử, gần với không ái lạc, gần với không chấp trước, gần với không chấp thủ.”

Do suy tư như vậy, vị ấy thành tựu sự yểm ly, sự vô tham, sự diệt tận đối với các hữu.

Bốn hạng người

Thế Tôn dạy:

— Này các Gia chủ, có bốn hạng người này có mặt ở trong đời. Thế nào là bốn?

Ở đây, này các Gia chủ, có người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Ở đây, này các Gia chủ, có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Gia chủ, có người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này các Gia chủ, có người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Vị này không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại không có tham dục, không có khao khát, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.

Và này các Gia chủ, thế nào là người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình?

Ở đây, này các Gia chủ, có người sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng lại một chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không nhận lời mời đi ăn, không nhận thức ăn từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa những cối giã gạo, không nhận từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang giao cấu với người đàn ông, không nhận đồ ăn đem quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu. Vị ấy không ăn cá, không ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men.

Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, hay chỉ nhận một miếng; hoặc chỉ nhận ăn tại hai nhà, hoặc hai miếng; cho đến chỉ nhận ăn tại bảy nhà, hoặc bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, hai bát, cho đến bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, cho đến bảy ngày một bữa; thậm chí sống tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.

Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, lúa tắc, lúa hoang, da vụn, rong nước, bột tấm, váng gạo, bột vừng, cỏ, hoặc phân bò. Vị ấy ăn trái cây rừng, ăn rễ cây rừng, ăn trái cây rụng để nuôi sống.

Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn các loại vải khác, mặc vải tẩm liệm quăng bỏ, mặc vải phấn tảo y, mặc vỏ cây tirita làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo kết từ từng mảnh da sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cừu.

Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, là người chuyên sống theo hạnh nhổ râu tóc, là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi, là người ngồi chõ hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chõ hỏ một cách tinh tấn, là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai, sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước tắm để gột sạch tội lỗi.

Như vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình.

Và này các Gia chủ, thế nào là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?

Ở đây, này các Gia chủ, có người làm nghề đồ tể giết trâu bò, làm nghề đồ tể giết heo, làm nghề giết vịt, săn thú, làm thợ săn, làm thợ đánh cá, làm nghề ăn trộm, làm người xử tử những người ăn trộm, làm cai ngục, và những người làm các nghề ác độc khác.

Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.

Và này các Gia chủ, thế nào là hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?

Ở đây, này các Gia chủ, có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lị, hay là một Bà-la-môn triệu phú. Vị ấy cho xây dựng một giảng đường mới về phía Đông thành phố, cạo bỏ râu tóc, khoác áo da thô, toàn thân bôi thục tô và dầu, dùng một cái sừng nai để gãi lưng, rồi cùng với người vợ chính và một vị Bà-la-môn tế tự đi vào giảng đường. Sau đó, vị ấy nằm xuống đất trống chỉ có lót cỏ.

Vị vua ấy sống bằng sữa từ vú một con bò cái, có con nghé con cùng màu sắc; bà vợ chính sống bằng sữa từ vú thứ hai; vị Bà-la-môn tế tự sống bằng sữa từ vú thứ ba; còn sữa từ vú thứ tư được dùng để tế lửa. Con nghé con thì sống với phần đồ ăn còn lại.

Vị vua ấy nói như sau: “Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một số nghé đực để tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết một số dê để tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ; hãy chặt một số cây để làm cột tế lễ; hãy thâu lượm một số cỏ dabbha để làm chỗ tế lễ.”

Và những người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, vì sợ đòn roi, vì sợ nguy hiểm, với gương mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc mà làm các công việc.

Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.

Và này các Gia chủ, thế nào là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người; ngay trong hiện tại, không có tham dục, không có khao khát, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể?

Ở đây, này các Gia chủ, Như Lai xuất hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi tự thân chứng ngộ với thượng trí, về thế giới này, về Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa; Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ và thanh tịnh.

Người gia trưởng, hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp hạ tiện, khi nghe pháp ấy, sau khi nghe pháp, sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi đã có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: “Ðời sống gia đình đầy những triền phược, là con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”

Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ, hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống của các Tỷ-kheo: từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết hổ thẹn, biết sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc của tất cả chúng sanh và loài hữu tình.

Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp.

Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.

Vị ấy từ bỏ nói láo, nói lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời.

Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này không đi đến chỗ kia để sanh chia rẽ; nghe điều gì ở chỗ kia không đi nói với chỗ này để sanh chia rẽ. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa lời độc ác, nói những lời dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thấm nhập tâm người, tao nhã, đẹp lòng nhiều người.

Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói lời chân thật, nói lời có ý nghĩa, nói về pháp, nói về luật, nói những lời đáng được gìn giữ, hợp thời, hợp lý, có hệ thống, có ích lợi.

Vị ấy từ bỏ việc làm hại các hạt giống và các loại cây cỏ; dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ ăn các món phi thời.

Vị ấy từ bỏ việc đi xem múa hát, nhạc kịch, các cuộc trình diễn; từ bỏ việc dùng vòng hoa, hương liệu, dầu thơm, đồ trang sức, các hình thức trang điểm.

Vị ấy từ bỏ việc sử dụng giường cao và giường lớn; từ bỏ việc nhận vàng bạc; từ bỏ việc nhận các loại hạt giống; từ bỏ việc nhận thịt sống; từ bỏ việc nhận đàn bà, con gái; từ bỏ việc nhận nô tỳ trai gái; từ bỏ việc nhận cừu và dê; từ bỏ việc nhận gia cầm và heo; từ bỏ việc nhận voi, bò, ngựa, ngựa cái; từ bỏ việc nhận ruộng nương đất đai.

Vị ấy từ bỏ việc làm người môi giới hoặc dùng người môi giới; từ bỏ việc buôn bán; từ bỏ việc gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ việc gây thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp và cướp phá.

Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân và với đồ ăn khất thực để nuôi thân, đi đến chỗ nào cũng mang theo y và bình bát. Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo đôi cánh của nó, cũng vậy, vị Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân và với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi đến chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.

Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, do con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt. Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng, những nguyên nhân gì, do ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.

Vị ấy khi đi tới, đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa chọn một trú xứ thanh vắng như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.

Sau khi đi khất thực, ăn xong trở về, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng, tại chỗ ấy, và an trú chánh niệm trước mặt. Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm khỏi dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, với lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu tình, gột rửa tâm khỏi sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm khỏi hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm tĩnh lặng, gột rửa tâm khỏi trạo cử và hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân, không lưỡng lự, gột rửa tâm khỏi nghi ngờ đối với thiện pháp.

Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này — những pháp làm tâm ô nhiễm, làm trí tuệ yếu ớt — ly dục, ly các pháp bất thiện, chứng và an trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.

Vị ấy diệt tầm và tứ, nội tâm tĩnh lặng, nhất tâm, chứng và an trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ.

Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm thọ lạc mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú,” chứng và an trú Thiền thứ ba.

Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến Túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều lần hoại kiếp, nhiều lần thành kiếp.

Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ nọ, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta sanh ra tại chỗ này.” Như vậy, vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cả đại cương lẫn chi tiết.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến Sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ: chúng sanh, kẻ hạ liệt người cao sang, kẻ đẹp đẽ người thô xấu, kẻ may mắn người bất hạnh — tất cả đều do hạnh nghiệp của họ.

Vị ấy quán sát như sau: “Thật sự, những chúng sanh này thành tựu các ác hạnh về thân, thành tựu các ác hạnh về lời nói, thành tựu các ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.”

“Còn những chúng sanh này thành tựu các thiện hạnh về thân, thành tựu các thiện hạnh về lời nói, thành tựu các thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, Thiên giới, cõi đời này.”

Như vậy, vị ấy, với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy rõ sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rằng: chúng sanh, kẻ hạ liệt người cao sang, kẻ đẹp đẽ người thô xấu, kẻ may mắn người bất hạnh — tất cả đều tùy thuộc hạnh nghiệp của họ.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến Lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: “Đây là Khổ”; tuệ tri như thật: “Đây là Khổ tập”; tuệ tri như thật: “Đây là Khổ diệt”; tuệ tri như thật: “Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt.”

Vị ấy tuệ tri như thật: “Đây là các lậu hoặc”; tuệ tri như thật: “Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc”; tuệ tri như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc”; tuệ tri như thật: “Đây là Con Đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc.”

Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát.”

Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm; sau đời hiện tại, không còn trở lui đời sống này nữa.”

Như vậy, này các Gia chủ, được gọi là hạng người không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người; ngay trong hiện tại, không có tham dục, không có khao khát, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.

Khi được nói như vậy, các Bà-la-môn, gia chủ trú ở Sala bạch Thế Tôn:

— Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thưa Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc; cũng vậy, Chánh pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày và giải thích.

Chúng con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama chấp nhận cho chúng con làm những người cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, trọn đời quy ngưỡng.

QR Code
QR Code https://thuvienphatgiao.org/kinh-khong-gi-chuyen-huong/

Hành trình đến con đường Giác ngộ

Xem thêm những bài viết

Tiểu kinh Màlunkyà – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 63
Thế Tôn bảo Tôn giả Māluṅkyaputta: — Này Māluṅkyaputta, có bao giờ Ta nói với Ông rằng:“Hãy đến này Māluṅkyaputta, hãy sống Phạm hạnh…
Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 62
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tịnh xá Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Thế Tôn, vào buổi…
Kinh Giáo Giới La-hầu-la ở rừng Ambala – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 61
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivāpa (chỗ nuôi dưỡng sóc). Lúc bấy…
Kinh Không Gì Chuyển Hướng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 60
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo, và đến tại Sala, một…
Kinh Vương Tử Vô Uý – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 58
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú tại Vương Xá (Rājagaha), trong Trúc Lâm (Veluvana), tại chỗ nuôi sóc Kalandakanivāpa. Bấy giờ,…
Kinh Nhiều Cảm Thọ – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 59
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại Xá Vệ (Sāvatthī), trong Rừng Kỳ-đà (Jetavana), tại tinh xá ông Cấp Cô Ðộc…