Tôi nghe như vầy:
Một thời, Tôn giả Mahā Moggallāna (Đại Mục-kiền-liên) trú giữa dân chúng Bhagga (Bạt-kỳ), tại Sumsumāragira (Tu-tu-mã-la), trong rừng Bhessakalāvana (Tỳ-xá-ca-la), tại vườn Lộc Uyển (Migadāya).
Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahā Moggallāna đang đi kinh hành (caṅkamati) ngoài trời. Khi ấy, Ác ma (Māra) đi vào bụng (kucchi) Tôn giả Mahā Moggallāna, ở trong bao tử (udara). Tôn giả Mahā Moggallāna nghĩ: “Sao nay bụng ta nặng nề (garuka), như đầy chặt (sampanna) quá vậy?” Rồi Tôn giả từ chỗ kinh hành bước xuống, vào tự viện (vihāra), ngồi trên chỗ đã soạn sẵn (paññatta āsana).
Sau khi ngồi, Tôn giả Mahā Moggallāna tự chánh niệm (sati), thấy Ác ma đã vào trong bụng, đang ở trong bao tử. Thấy vậy, Tôn giả nói với Ác ma:
—Hãy đi ra (nikkhama), Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ phiền nhiễu (viheṭhesi) Như Lai (Tathāgata) và đệ tử Như Lai. Chớ khiến ngươi chịu bất hạnh (anaya) và đau khổ (dukkha) lâu dài!
Rồi Ác ma suy nghĩ: “Vị Sa-môn này không biết (na jānāti) ta, không thấy (na passati) ta, mà nói: ‘Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ khiến ngươi chịu bất hạnh và đau khổ lâu dài!’ Ngay cả Bổn sư (satthā) của ông cũng không biết ta nhanh như vậy, huống chi vị đệ tử này biết được ta?”
Tôn giả Mahā Moggallāna lại nói với Ác ma:
—Này Ác ma, Ta biết ngươi! Đừng nghĩ: “Vị này không biết ta.” Ngươi là Ác ma! Này Ác ma, ngươi nghĩ: “Vị Sa-môn này không biết ta, không thấy ta, mà nói: ‘Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ khiến ngươi chịu bất hạnh và đau khổ lâu dài!’ Ngay cả Bổn sư cũng không biết ta nhanh như vậy, huống chi vị đệ tử này biết được ta?”
Ác ma suy nghĩ: “Vị Sa-môn này biết ta, thấy ta, mà nói: ‘Hãy đi ra, Ác ma! Hãy đi ra, Ác ma! Chớ phiền nhiễu Như Lai và đệ tử Như Lai. Chớ khiến ngươi chịu bất hạnh và đau khổ lâu dài!’” Rồi Ác ma từ miệng (mukha) Tôn giả Mahā Moggallāna bước ra (nikkhami), đứng dựa (allīna) nơi cửa miệng (mukhadvara). Tôn giả thấy Ác ma đứng dựa nơi cửa miệng, bèn nói:
—Này Ác ma, ở đây Ta cũng thấy ngươi! Đừng nghĩ: “Vị này không thấy ta.” Này Ác ma, nay ngươi đang đứng dựa nơi cửa miệng.
(Quá khứ của Ác ma và Moggallāna)
—Này Ác ma, thuở xưa Ta là Ác ma tên Dūsī (Đỗ-si), và chị ta là Kālī (Ca-lê). Ngươi là con trai của chị ta, tức là cháu (bhāgineyya) của Ta. Này Ác ma, lúc bấy giờ Thế Tôn Kakusandha (Ca-câu-tôn-đà), bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác xuất hiện ở đời. Thế Tôn Kakusandha có hai đệ tử tối thượng (aggasāvaka) là Vidhura (Tỳ-đồ-la) và Sañjīva (Tán-chỉ-bà), hai bậc Hiền giả (sappurisa).
—Này Ác ma, trong hàng đệ tử của Thế Tôn Kakusandha, không ai sánh bằng Tôn giả Vidhura về thuyết pháp (desanā). Vì thế, Tôn giả Vidhura được gọi là Vidhura (Vô song). Còn Tôn giả Sañjīva thường đi rừng (arañña), gốc cây (rukkhamūla), chỗ vắng (suññāgāra), chứng Diệt Thọ Tưởng Định (saññāvedayitanirodha) không khó khăn (avikhepena).
—Này Ác ma, thuở xưa Tôn giả Sañjīva nhập Diệt Thọ Tưởng Định dưới một gốc cây. Các người chăn bò (gopālaka), chăn thú (pasupālaka), làm ruộng (kassaka), và lữ hành (pathāvino) thấy Tôn giả đang ngồi dưới gốc cây, nói với nhau: “Thật vi diệu (acchariya) thay, chư Tôn giả! Thật hy hữu (abbhuta) thay, chư Tôn giả! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi (kālaṅkato nisīdati). Chúng ta hãy hỏa táng (jhapessāma) ngài!” Họ thu nhặt cỏ (tiṇa), củi (kaṭṭha), và phân bò (gomaya), chất lên thân Tôn giả Sañjīva, đốt lửa rồi bỏ đi.
—Này Ác ma, sau khi đêm tàn, Tôn giả Sañjīva xuất định (vuṭṭhāti), phủi áo (saṅghāṭi), buổi sáng đắp y (nivāseti), cầm bát (pattacīvara) vào làng khất thực (piṇḍāya pavisati). Các người chăn bò, chăn thú, làm ruộng, và lữ hành thấy Tôn giả đi khất thực, nghĩ: “Thật vi diệu thay! Thật hy hữu thay! Vị Sa-môn này chết mà vẫn ngồi, nay sống lại (sañjīvati)!” Vì thế, Tôn giả Sañjīva được gọi là Sañjīva (Sống lại).
(Hành động của Ác ma Dūsī)
—Này Ác ma, Ác ma Dūsī nghĩ: “Ta không biết chỗ đến (gati) và chỗ đi (agati) của các Tỷ-kheo có giới hạnh (sīlavant) và thiện pháp (kalyāṇadhamma) này. Ta sẽ nhập (anupavisati) vào các Bà-la-môn gia chủ (brāhmaṇagahapatika), khiến họ phỉ báng (paribhāsati), mạ lỵ (akkosati), thống trách (upakkosati), nhiễu hại (viheṭheti) các Tỷ-kheo ấy. Khi bị phỉ báng, mạ lỵ, thống trách, nhiễu hại, họ có thể đổi tâm (cittaṃ aññathattaṃ), và Ác ma Dūsī sẽ có dịp (okāsa) chi phối họ.”
—Rồi Ác ma Dūsī nhập vào các Bà-la-môn gia chủ, khiến họ phỉ báng, mạ lỵ, thống trách, nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp, nói: “Những kẻ trọc đầu (muṇḍaka), Sa-môn giả hiệu (samaṇaka), tiện nô (ibbhaka), hắc nô (kaṇhābhijāti), sinh từ gót chân (pādaja) này, chúng nói: ‘Chúng tôi tu thiền (jhāyāma), chúng tôi tu thiền,’ mà vai thụt xuống (okkhittasakha), mặt cúi gằm (otthapahatā), mê mê dại dại (kilamanti), tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền. Như con cú (ulūka) đậu trên cành cây rình chuột (mūsika), tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ này… Như con chó rừng (sigāla) bên bờ sông rình cá (maccha), tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ này… Như con mèo (biḷāra) bên đống rác (saṅkārakūṭa) rình chuột, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ này… Như con lừa (gadrabha) gánh nặng đặt xuống, tu thiền, mê thiền, si thiền, dại thiền; cũng vậy, những kẻ này…” Này Ác ma, phần lớn những người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, sinh vào cõi dữ (apāya), ác thú (duggati), đọa xứ (vinipāta), địa ngục (niraya).
(Phản ứng của Thế Tôn Kakusandha)
—Rồi Thế Tôn Kakusandha gọi các Tỷ-kheo:
—Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī nhập vào, khiến họ nói: “Hãy phỉ báng, mạ lỵ, thống trách, nhiễu hại các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp, để họ đổi tâm, và Ác ma Dūsī có dịp chi phối.” Này các Tỷ-kheo, hãy biến mãn (pharitvā) một phương với tâm câu hữu với từ (mettāsahagata), rồi an trú (viharatha); cũng vậy phương thứ hai, thứ ba, thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới (lokasmiṃ), trên, dưới, ngang, khắp mọi phương, vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại (mahaggata), vô biên (appamāṇa), không hận (averī), không sân (avyāpajjha). Với tâm câu hữu với bi (karuṇā), hỷ (muditā), xả (upekkhā) cũng vậy…
—Rồi các Tỷ-kheo được Thế Tôn Kakusandha khuyến khích (samādapita), khuyến giáo (samuttejita), đi đến rừng, gốc cây, chỗ vắng, an trú biến mãn với từ, bi, hỷ, xả như trên.
—Này Ác ma, Ác ma Dūsī nghĩ: “Dù làm vậy, ta vẫn không biết chỗ đến, chỗ đi của các Tỷ-kheo này. Ta sẽ nhập vào các Bà-la-môn gia chủ, khiến họ tán thán (sakkaroti), tôn trọng (garukaroti), đảnh lễ (abhivādeti), cúng dường (pūjeti) họ, để họ đổi tâm, và ta có dịp chi phối.” Rồi Ác ma Dūsī nhập vào các Bà-la-môn gia chủ, khiến họ tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo ấy. Sau một thời gian, phần lớn họ, khi thân hoại mạng chung, sinh vào thiện thú (sugati), Thiên giới (sagga), cõi đời này (lokasmiṃ).
—Rồi Thế Tôn Kakusandha gọi các Tỷ-kheo:
—Này các Tỷ-kheo, các Bà-la-môn gia chủ bị Ác ma Dūsī nhập vào, khiến họ tán thán, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường các Tỷ-kheo có giới hạnh và thiện pháp, để họ đổi tâm và Ác ma có dịp chi phối. Này các Tỷ-kheo, hãy sống quán bất tịnh (asubhasaññā) trên thân, quán nhàm chán (āhāre paṭikūlasaññā) đối với các món ăn, quán bất khả lạc (sabbaloke anabhiratisaññā) đối với tất cả thế gian, quán vô thường (aniccasaññā) đối với tất cả hành (saṅkhāra).
—Các Tỷ-kheo được khuyến giáo như vậy, đi đến rừng, gốc cây, chỗ vắng, sống quán bất tịnh trên thân, nhàm chán các món ăn, bất khả lạc với thế gian, vô thường với các hành.
(Ác ma tấn công và chịu quả báo)
—Rồi Thế Tôn Kakusandha, buổi sáng đắp y, mang y bát, với Tôn giả Vidhura làm thị giả (upatthāka), vào làng khất thực. Này Ác ma, Ác ma Dūsī nhập vào một đứa trẻ (kumāraka), cầm hòn đá (sakalika), đánh (paharati) vào đầu Tôn giả Vidhura, khiến đầu bể (sīsaṃ phālesi). Tôn giả Vidhura, dù đầu bể máu chảy (lohita), vẫn đi sau Thế Tôn Kakusandha.
—Rồi Thế Tôn Kakusandha nhìn quanh với cái nhìn con voi chúa (nāgāpalokita), nghĩ: “Thật vậy, Ác ma Dūsī không biết vừa phải (pamāṇa).” Khi Thế Tôn nhìn quanh, Ác ma Dūsī từ đó mạng chung (cavi), sinh vào địa ngục (niraya).
—Này Ác ma, địa ngục ấy có ba tên: Sáu xúc xứ địa ngục (Chaphassāyatanikaniraya), Thiết qua địa ngục (Ayosiṅghāṭakaniraya), Biệt thọ khổ địa ngục (Paccattavedaniyaniraya). Các người giữ địa ngục (nirayapāla) đến ta, nói: “Này Tôn giả, khi cọc sắt (ayosiṅghāṭaka) gặp cọc sắt trong tim ngươi, ngươi sẽ hiểu: ‘Ta bị trụng nước sôi (paccati) một ngàn năm ở địa ngục.’”
—Ta bị trụng nước sôi nhiều năm, nhiều trăm năm, nhiều ngàn năm trong địa ngục ấy. Trải qua một vạn năm (vassasahassa) trong đại địa ngục, ta bị nấu sôi, cảm thọ cảm giác gọi là Vuṭṭhanima (khổ thoát). Vì thế, này Ác ma, thân ta như thân người, đầu ta như đầu cá (macchaka).
(Bài kệ về nghiệp và quả báo)
- Địa ngục ấy thế nào,
Dūsī bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha?
Có trăm cọc sắt (satasūla),
Tự cảm thọ riêng biệt,
Địa ngục là như vậy,
Dūsī bị nấu sôi,
Vì đánh Vidhura,
Đệ tử Kakusandha.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Dựng giữa biển cả,
Cung điện trải nhiều kiếp,
Bằng ngọc lưu ly (veḷuriya),
Huy hoàng chiếu diệu,
Tiên nữ (accharā) múa đây,
Trang sức màu dị biệt.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Ai Thế Tôn khuyến khích,
Được chư Tăng chứng kiến,
Dùng ngón chân rung chuyển (kampesi),
Lâu đài Vejayanta (Vejayantapāsāda)!
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Với ngón chân rung chuyển,
Lâu đài Vejayanta,
Đầy đủ thần thông lực (iddhibala),
Chư Thiên cũng hoảng sợ (saṃvijita).
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Ai hỏi vị Sakka,
Tại lầu Vejayanta,
Hiền giả có biết,
Chứng ái tận giải thoát (taṇhakkhaya)?
Sakka đã chân thành,
Trả lời câu được hỏi.
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Ai hỏi Phạm thiên,
Tại hội Thiện Pháp (Sudhammasabhā),
Hiền giả còn chấp,
Tà kiến (diṭṭhigatāni) thuở xưa?
Có thấy huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên giới?
Brahmā chân thành đáp:
Tôi không chấp tà kiến,
Tôi thấy huy hoàng,
Phạm thiên cảnh Thiên giới,
Sao nay nói được,
Tôi thường, thường tại?
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Ai với giải thoát (vimokkha),
Cảm xúc Cao sơn đảnh (Sinerupabbata),
Rừng Đông Videha (Pūbhavideha),
Và người nằm trên đất (pathavītala),
Tỷ-kheo đệ tử Phật,
Hiểu rõ như vậy,
Vì ngươi đánh Tỷ-kheo,
Kaṇha chịu khổ thọ. - Lửa chẳng nghĩ rằng:
“Ta đốt cháy kẻ ngu,”
Kẻ ngu đột kích lửa,
Tự mình bị thiêu cháy.
Cũng vậy, này Ác ma,
Ngươi đột kích Như Lai,
Tự đốt cháy mình,
Như ngu chạm lửa.
Ác ma tạo ác nghiệp (pāpakamma),
Do nhiễu hại Như Lai,
Ngươi nghĩ chăng, Ác ma,
“Ác quả chẳng đến ta”?
Điều ác Ác ma làm,
Chất chứa đã lâu rồi,
Ác ma, tránh Phật đi (parivajjehi buddhaṃ),
Chớ vọng tưởng Tỷ-kheo (mā kho tvaṃ bhikkhusaṅkappayittho)!
(Kết thúc)
—Tỷ-kheo chống Ác ma,
Tại rừng Bhesakālā,
Ác ma, vị Dạ-xoa,
Thất vọng (visīdati),
Biến mất (antaradhāyi) tại chỗ.
Hành trình đến con đường Giác ngộ