Logo Thư Viện Phật Giáo
Kinh Kandaraka – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 51

Kinh Kandaraka – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 51

Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn đang cư ngụ tại Campā, bên bờ hồ Gaggarā, cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Bấy giờ, Pessa, con trai người huấn luyện voi, và du sĩ Kandaraka đến nơi Thế Tôn đang ở. Sau khi đến, Pessa – con người huấn luyện voi – đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn du sĩ Kandaraka, sau khi chào hỏi Thế Tôn với những lời thăm hỏi thân tình, liền đứng sang một bên.

Khi ấy, du sĩ Kandaraka nhìn quanh hội chúng Tỷ-kheo – những vị đang an trú trong tịch tĩnh, thật sự tịch tĩnh – bèn thưa với Thế Tôn:

— Thật kỳ diệu thay, bạch Tôn giả Gotama! Thật hiếm có thay, bạch Tôn giả Gotama! Chúng Tỷ-kheo này quả thật được Tôn giả Gotama hướng dẫn một cách chân chánh. Bạch Tôn giả Gotama, chư vị A-la-hán, những bậc Chánh Đẳng Giác trong quá khứ – không biết các vị ấy có dẫn dắt một hội chúng Tỷ-kheo vi diệu như vậy chăng, như hiện tại Tôn giả đang dẫn dắt hội chúng Tỷ-kheo này? Và bạch Tôn giả Gotama, chư vị A-la-hán, những bậc Chánh Đẳng Giác trong tương lai – không biết các vị ấy rồi sẽ có một hội chúng Tỷ-kheo vi diệu như vậy chăng, như hiện tại Tôn giả đang dẫn dắt hội chúng Tỷ-kheo này?

— Đúng vậy, này Kandaraka! Đúng vậy, này Kandaraka! Này Kandaraka, chư vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong quá khứ đã từng có những hội chúng Tỷ-kheo vi diệu như vậy, và các vị ấy đã chân chánh hướng dẫn hội chúng ấy, giống như Ta hiện nay đang hướng dẫn hội chúng Tỷ-kheo này. Và này Kandaraka, chư vị A-la-hán, Chánh Đẳng Giác trong tương lai cũng sẽ có những hội chúng Tỷ-kheo vi diệu như vậy, và các vị ấy rồi cũng sẽ chân chánh hướng dẫn hội chúng ấy, giống như Ta hiện nay đang hướng dẫn hội chúng Tỷ-kheo này.

Này Kandaraka, trong hội chúng Tỷ-kheo này, có những vị đã chứng quả A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, đã tu tập viên mãn, đã làm xong những việc cần làm, đã đặt xuống gánh nặng, đã thành tựu mục đích tối hậu, đã dứt trừ mọi ràng buộc tái sinh, và đã được giải thoát nhờ chánh trí.

Cũng trong hội chúng Tỷ-kheo này, có những vị còn đang tu học, có giới hạnh nghiêm trì, có trí tuệ sáng suốt, có hành vi thanh tịnh, sống với tâm khéo an trú trong Bốn Niệm Xứ.

Thế nào là bốn?

Này Kandaraka, ở đây, một vị Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời;
sống quán thọ trên các cảm thọ, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời;
sống quán tâm trên tâm, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời;
sống quán pháp trên các pháp, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời.

Khi nghe Thế Tôn nói vậy, Pessa – con trai người huấn luyện voi – liền bạch rằng:

— Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hiếm có thay, bạch Thế Tôn! Bốn Niệm Xứ này đã được Thế Tôn trình bày một cách khéo léo, nhằm giúp cho chúng sanh được thanh tịnh, vượt qua sầu bi, đoạn trừ khổ ưu, đạt đến chánh pháp, và chứng ngộ Niết-bàn.

Bạch Thế Tôn, chúng con là hàng tại gia, mặc áo trắng, nhưng đôi khi cũng an trú tâm mình trong Bốn Niệm Xứ này.

Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sống quán thân trên thân, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời;
chúng con sống quán thọ trên các cảm thọ, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời;
chúng con sống quán tâm trên tâm, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời;
chúng con sống quán pháp trên các pháp, với tâm nhiệt thành, tỉnh giác, chánh niệm, nhằm chế ngự tham ưu trên đời.

Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hiếm có thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, Ngài thấu rõ hạnh phúc và khổ đau của chúng sanh, trong khi loài người lại sống giữa bao nhiêu rối ren như vậy, giữa bao nhiêu cặn bã như vậy, giữa bao nhiêu mưu mô xảo trá như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay là loài người! Cởi mở thay là loài thú!

Bạch Thế Tôn, con có thể huấn luyện được một con voi đến mức, mỗi khi nó đi hay đến Campā, nó đều biểu lộ ra những biểu hiện của giả dối, gian dối, xảo quyệt. Nhưng bạch Thế Tôn, những người đầy tớ của chúng con, những kẻ phục dịch, những người làm công – thân thì làm một kiểu, lời nói thì một kiểu khác, và trong tâm lại là kiểu khác nữa.

Thật kỳ diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật hiếm có thay, bạch Thế Tôn! Thế Tôn thấu rõ hạnh phúc và khổ đau của chúng sanh, trong khi loài người sống giữa sự rối ren như vậy, giữa sự cặn bã như vậy, giữa sự xảo trá như vậy. Bạch Thế Tôn, rối ren thay là loài người! Cởi mở thay là loài thú!

— Thật như vậy, này Pessa! Thật như vậy, này Pessa! Này Pessa, rối ren thay như loài người! Cởi mở thay như loài thú vật! Này Pessa, có bốn hạng người này có mặt ở trên đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này Pessa, có người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Ở đây, này Pessa, có người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, có người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người. Ở đây, này Pessa, lại có người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Người ấy không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể. Này Pessa, bốn hạng người này, hạng người nào được tâm ông thích ý nhất?

— Bạch Thế Tôn, hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này tâm con không thích ý. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, hạng người không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại không có tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể, hạng người này, tâm con thích ý.

— Này Pessa, vì sao ông không thích ý ba hạng người này?

— Bạch Thế Tôn, hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, hạng người này hành khổ mình, hành hạ mình, trong khi tự ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này, hành khổ người khác, hành hạ người khác, trong khi người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Bạch Thế Tôn, hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người, hạng người này hành khổ mình, hành hạ mình và người khác, trong khi mình và người khác ao ước lạc, nhàm chán khổ; do vậy, tâm con không thích ý hạng người này. Nhưng bạch Thế Tôn, người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người, hạng người này không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm giác lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể; do vậy, tâm con thích ý hạng người này. Và này, bạch Thế Tôn, chúng con phải đi, chúng con có nhiều công vụ, có nhiều công việc phải làm.

— Này Pessa, ông hãy làm những gì ông nghĩ là hợp thời.

Rồi Pessa, con trai người huấn luyện voi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

Rồi Thế Tôn, sau khi Pessa, con trai người huấn luyện voi ra đi không được bao lâu, liền nói với các Tỷ-kheo:

— Này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn luyện voi là bậc có trí; Pessa, con trai người huấn luyện voi là người có đại trí tuệ. Này các Tỷ-kheo, nếu Pessa, con trai người huấn luyện voi ngồi thêm một chút nữa, cho đến khi Ta phân tích rộng rãi hơn bốn hạng người này, thời anh ta sẽ thâu đạt được nhiều lợi ích. Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, Pessa, con trai người huấn luyện voi như vậy cũng đã thâu đạt được nhiều lợi ích.

— Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời. Bạch Thiện Thệ, nay đã đến thời để Thế Tôn phân tích rộng rãi hơn bốn hạng người này. Sau khi nghe Thế Tôn, các Tỷ-kheo sẽ thọ trì.

— Vậy này các Tỷ-kheo, hãy nghe và khéo léo tác ý, Ta sẽ giảng.

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:

Này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sống lõa thể, sống phóng túng, không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, đi khất thực không chịu đứng một chỗ, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn dành riêng, không nhận lời mời đi ăn, không nhận từ nơi miệng nồi, không nhận từ nơi miệng chảo, không nhận tại ngưỡng cửa, không nhận giữa những cây gậy, không nhận giữa những cối giã gạo, không nhận từ hai người đang ăn, không nhận từ người đàn bà có thai, không nhận từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận từ người đàn bà đang giao cấu với người đàn ông, không nhận đồ ăn đi quyên, không nhận tại chỗ có chó đứng, không nhận tại chỗ có ruồi bu, không ăn cá, ăn thịt, không uống rượu nấu, rượu men.

Vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, hay chỉ nhận ăn một miếng; hoặc chỉ nhận ăn tại hai nhà, hay hai miếng; ba nhà, ba miếng… cho đến bảy nhà, bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, hai bát… cho đến bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa… cho đến bảy ngày một bữa. Như vậy, vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống, cho đến nửa tháng mới ăn một lần.

Vị ấy chỉ ăn cỏ hoang, ăn lúa tắc, ăn lúa hoang, ăn da vụn, ăn rong nước, ăn bột tấm, ăn váng gạo, ăn bột vừng, ăn cỏ hoặc ăn phân bò. Vị ấy ăn trái cây, ăn rễ cây trong rừng, ăn trái cây rụng để sống.

Vị ấy mặc vải gai thô, mặc vải gai thô lẫn với các vải khác, mặc vải tẩm liệm rồi quăng đi, mặc y phấn tảo, mặc vỏ cây tirita làm áo, mặc da con sơn dương đen, mặc áo bện bằng từng mảnh da con sơn dương đen, mặc áo bằng cỏ cát tường, mặc áo vỏ cây, mặc áo bằng tấm gỗ nhỏ, mặc áo bằng tóc bện lại thành mền, mặc áo bằng đuôi ngựa bện lại, mặc áo bằng lông cừu.

Vị ấy là người sống nhổ râu tóc, chuyên sống theo hạnh nhổ râu tóc; là người theo hạnh thường đứng, từ bỏ chỗ ngồi; là người ngồi chõ hỏ, chuyên sống theo hạnh ngồi chõ hỏ một cách tinh tấn; là người dùng gai làm giường, thường ngủ nằm trên giường gai; sống một đêm tắm ba lần, theo hạnh xuống nước để gột sạch tội lỗi.

Như vậy, dưới nhiều hình thức, vị ấy sống tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người giết trâu bò, là người giết heo, là người giết vịt, săn thú, là thợ săn, thợ đánh cá, ăn trộm, người xử tử những người ăn trộm, cai ngục và những người làm các nghề độc ác khác.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người làm vua, thuộc giai cấp Sát-đế-lị, đã làm lễ quán đảnh, hay là một vị Bà-la-môn triệu phú. Vị này cho xây dựng một giảng đường mới về phía Đông thành phố, cạo bỏ râu tóc, đắp áo da thô, toàn thân bôi thục tô và dầu, gãi lưng với một sừng nai, đi vào giảng đường với người vợ chính và một vị Bà-la-môn tế tự. Rồi vị ấy nằm xuống đất trống, chỉ có lát cỏ.

Vị vua sống với sữa từ vú một con bò cái, con bò có nghé con cùng màu sắc; bà vợ chính sống với sữa từ vú thứ hai; và vị Bà-la-môn tế tự sống với sữa từ vú thứ ba. Sữa từ vú thứ tư dùng để tế lửa. Còn con nghé thì sống với phần còn lại.

Vị vua nói rằng: “Hãy giết một số bò đực để tế lễ, hãy giết một số nghé đực để tế lễ, hãy giết một số nghé cái để tế lễ, hãy giết một số dê để tế lễ, hãy giết một số cừu để tế lễ, hãy chặt một số cây để làm cột tế lễ, hãy thâu lượm một số cỏ dabbha để làm chỗ tế lễ.”

Và những người nô tỳ, những người phục vụ, những người làm công, những người này vì sợ đòn gậy, vì sợ nguy hiểm, với mặt tràn đầy nước mắt, khóc lóc làm các công việc.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người vừa tự hành khổ mình, chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa hành khổ người, chuyên tâm hành khổ người.

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người?

Hạng người này không tự hành khổ mình, không hành khổ người, hiện tại sống không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai xuất hiện ở đời, là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn.

Như Lai, sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này gồm Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, lại tuyên bố điều Ngài đã chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, đầy đủ văn nghĩa. Ngài truyền dạy Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.

Người gia trưởng hay con người gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp hạ tiện, nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh lòng tín ngưỡng Như Lai. Khi có lòng tín ngưỡng ấy, người ấy suy nghĩ: “Đời sống gia đình đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật không dễ gì cho một người sống ở gia đình có thể sống theo Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo ca-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.”

Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ, hay bỏ tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ, hay bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo ca-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

Vị ấy xuất gia như vậy, hành trì các học giới và hạnh sống các Tỷ-kheo. Vị ấy từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết xấu hổ, sợ hãi, có lòng từ, sống thương xót đến hạnh phúc tất cả chúng sanh và loài hữu tình. Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp. Vị ấy từ bỏ đời sống không Phạm hạnh, sống theo Phạm hạnh, sống đời sống viễn ly, tránh xa dâm dục hạ liệt.

Vị ấy từ bỏ nói láo, nói những lời chân thật, liên hệ đến sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt đời. Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chuyện chia rẽ ở những người kia. Như vậy, vị ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thích thú trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.

Vị ấy từ bỏ nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác, nói những lời nói dịu hiền, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người; vị ấy nói những lời nói như vậy. Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm, tránh xa lời nói phù phiếm, nói đúng thời, nói chân thật, nói có ý nghĩa, nói pháp, nói luật, nói những lời đáng được gìn giữ, những lời hợp thời, hợp lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.

Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ, dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ các món ăn phi thời; từ bỏ không đi xem múa, hát, nhạc, các cuộc trình diễn; từ bỏ không dùng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa, trang sức, và các thời trang; từ bỏ không dùng giường cao và giường lớn; từ bỏ không nhận vàng và bạc; từ bỏ không nhận các hạt giống; từ bỏ không nhận thịt sống; từ bỏ không nhận đàn bà con gái; từ bỏ không nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ không nhận cừu và dê; từ bỏ không nhận gia cầm và heo; từ bỏ không nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái; từ bỏ không nhận ruộng nương đất đai; từ bỏ không dùng người làm môi giới hoặc tự mình làm môi giới; từ bỏ không buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo; từ bỏ không làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.

Vị ấy sống biết đủ, bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi đến chỗ nào cũng mang theo. Như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh, cũng vậy, Tỷ-kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi đến chỗ nào cũng mang theo. Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, nội tâm hưởng lạc thọ không khuyết phạm.

Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì con mắt không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự các nguyên nhân ấy, hộ trì con mắt, thực hành sự hộ trì con mắt.

Khi tai nghe tiếng, mũi ngửi hương, lưỡi nếm vị, thân cảm xúc, ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, vì ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, vị ấy chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn.

Vị ấy thành tựu Thánh hộ trì các căn này, nội tâm hưởng lạc thọ không uế nhiễm.

Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác; khi nhìn thẳng, khi nhìn quanh đều tỉnh giác; khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác; khi mang y kép, bình bát, thượng y đều tỉnh giác; khi ăn, uống, nhai, nuốt đều tỉnh giác; khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác; khi đi, đứng, ngồi, nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ trì các căn này, thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một trú xứ thanh vắng như khu rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, bãi tha ma, lùm cây ngoài trời, đống rơm.

Sau khi ăn xong và đi khất thực trở về, vị ấy ngồi kiết-già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt.

Vị ấy từ bỏ dục tham ở đời, sống với tâm thoát ly dục tham, gột rửa tâm hết dục tham. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, lòng từ mẫn thương xót tất cả chúng sanh hữu tình, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên. Từ bỏ trạo cử, hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

Vị ấy sau khi từ bỏ năm triền cái này, các pháp làm tâm cấu uế, làm trí tuệ trở thành yếu ớt, vị ấy ly dục, ly các pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.

Vị ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

Vị ấy ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “xả niệm lạc trú”, chứng và an trú Thiền thứ ba.

Vị ấy xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến túc mạng trí. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ: một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp.

Vị ấy nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi ở chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết ở chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây.” Như vậy, vị ấy nhớ đến những đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến sanh tử trí của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh.

Vị ấy tuệ tri rõ rằng: chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Vị ấy nghĩ rằng: “Thật sự những chúng sanh này thành tựu các ác hạnh về thân, thành tựu các ác hạnh về lời nói, thành tựu các ác hạnh về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

Còn những chúng sanh này thành tựu các thiện hạnh về thân, thành tựu các thiện hạnh về lời nói, thành tựu các thiện hạnh về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, Thiên giới, trên đời này.”

Như vậy, vị ấy với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy tuệ tri rõ rằng: chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.

Với tâm định tĩnh, thanh tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bất động như vậy, vị ấy hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy tuệ tri như thật: “Đây là Khổ.” Tuệ tri như thật: “Đây là Khổ tập.” Tuệ tri như thật: “Đây là Khổ diệt.” Tuệ tri như thật: “Đây là Con Đường đưa đến Khổ diệt.” Tuệ tri như thật: “Đây là các lậu hoặc.” Tuệ tri như thật: “Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc.” Tuệ tri như thật: “Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc.” Tuệ tri như thật: “Đây là Con Đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc.”

Nhờ biết như vậy, thấy như vậy, tâm vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đã giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: “Ta đã giải thoát.” Vị ấy tuệ tri: “Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, không còn trở lui đời sống này nữa.”

Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người vừa không tự hành khổ mình, không chuyên tâm tự hành khổ mình, vừa không hành khổ người, không chuyên tâm hành khổ người. Vị ấy không tự hành khổ mình, không hành khổ người, ngay trong hiện tại không tham dục, tịch tịnh, cảm thấy mát lạnh, cảm thấy lạc thọ, tự ngã trú vào Phạm thể.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy.

QR Code
QR Code https://thuvienphatgiao.org/kinh-kandaraka/

Hành trình đến con đường Giác ngộ

Xem thêm những bài viết

Tiểu kinh Màlunkyà – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 63
Thế Tôn bảo Tôn giả Māluṅkyaputta: — Này Māluṅkyaputta, có bao giờ Ta nói với Ông rằng:“Hãy đến này Māluṅkyaputta, hãy sống Phạm hạnh…
Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 62
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tịnh xá Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Thế Tôn, vào buổi…
Kinh Giáo Giới La-hầu-la ở rừng Ambala – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 61
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivāpa (chỗ nuôi dưỡng sóc). Lúc bấy…
Kinh Không Gì Chuyển Hướng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 60
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo, và đến tại Sala, một…
Kinh Vương Tử Vô Uý – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 58
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú tại Vương Xá (Rājagaha), trong Trúc Lâm (Veluvana), tại chỗ nuôi sóc Kalandakanivāpa. Bấy giờ,…
Kinh Nhiều Cảm Thọ – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 59
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại Xá Vệ (Sāvatthī), trong Rừng Kỳ-đà (Jetavana), tại tinh xá ông Cấp Cô Ðộc…