Logo Thư Viện Phật Giáo
Kinh Khu Rừng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 17

Kinh Khu Rừng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 17

Kinh Khu Rừng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 17

Tôi nghe như thế này:

Vào một thời, Đức Thế Tôn ngự tại thành Xá-vệ, trong Kỳ-đà Lâm, khu vườn của ông Cấp Cô Độc. Tại đây, Đức Thế Tôn gọi các Tỳ-kheo:
“Này các Tỳ-kheo!”
— “Bạch Đức Thế Tôn!” các Tỳ-kheo đáp lời.
Đức Thế Tôn nói: “Này các Tỳ-kheo, Ta sẽ giảng pháp môn về khu rừng. Hãy lắng nghe và suy ngẫm kỹ, Ta sẽ nói.”
— “Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn!” các Tỳ-kheo đáp lời.
Đức Thế Tôn dạy như sau:

“Này các Tỳ-kheo, ở đây, một Tỳ-kheo sống tại một khu rừng nào đó:

  1. Khi sống ở khu rừng này, các niệm chưa an trú thì không được an trú, tâm chưa định tĩnh thì không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì không được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì không đạt, và các vật dụng cần thiết cho đời sống xuất gia – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại khó kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống ở khu rừng này, các niệm không an trú, tâm không định tĩnh, lậu hoặc không đoạn tận, an ổn tối thượng không đạt, và các vật dụng cần thiết lại khó kiếm.’ Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ấy, ngay ngày hay đêm đó, nên rời bỏ khu rừng ấy, không ở lại.
  2. Khi sống ở khu rừng này, các niệm chưa an trú thì không được an trú, tâm chưa định tĩnh thì không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì không được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì không đạt, nhưng các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại dễ kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống ở khu rừng này, các niệm không an trú, tâm không định tĩnh, lậu hoặc không đoạn tận, an ổn tối thượng không đạt, dù các vật dụng cần thiết dễ kiếm. Nhưng ta xuất gia không phải vì y phục, thức ăn, chỗ nằm, hay thuốc trị bệnh, mà vì từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vậy mà ở đây, các niệm không an trú, tâm không định tĩnh, lậu hoặc không đoạn tận, an ổn tối thượng không đạt.’ Này các Tỳ-kheo, với suy nghĩ này, Tỳ-kheo ấy nên rời bỏ khu rừng ấy, không ở lại.
  3. Khi sống ở khu rừng này, các niệm chưa an trú thì được an trú, tâm chưa định tĩnh thì được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì được đạt, nhưng các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại khó kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống ở khu rừng này, các niệm được an trú, tâm được định tĩnh, lậu hoặc được đoạn tận, an ổn tối thượng được đạt, dù các vật dụng cần thiết khó kiếm. Nhưng ta xuất gia không phải vì y phục, thức ăn, chỗ nằm, hay thuốc trị bệnh, mà vì từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và ở đây, các niệm được an trú, tâm được định tĩnh, lậu hoặc được đoạn tận, an ổn tối thượng được đạt.’ Này các Tỳ-kheo, với suy nghĩ này, Tỳ-kheo ấy nên ở lại khu rừng ấy, không rời đi.
  4. Khi sống ở khu rừng này, các niệm chưa an trú thì được an trú, tâm chưa định tĩnh thì được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì được đạt, và các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại dễ kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống ở khu rừng này, các niệm được an trú, tâm được định tĩnh, lậu hoặc được đoạn tận, an ổn tối thượng được đạt, và các vật dụng cần thiết lại dễ kiếm.’ Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ấy nên ở lại khu rừng ấy trọn đời, không rời đi.

Này các Tỳ-kheo, cũng vậy với Tỳ-kheo sống ở một ngôi làng nào đó… một thị trấn nào đó… một đô thị nào đó… một quốc gia nào đó…

Này các Tỳ-kheo, ở đây, một Tỳ-kheo sống gần một người nào đó:

  1. Khi sống gần người này, các niệm chưa an trú thì không được an trú, tâm chưa định tĩnh thì không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì không được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì không đạt, và các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại khó kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống gần người này, các niệm không an trú, tâm không định tĩnh, lậu hoặc không đoạn tận, an ổn tối thượng không đạt, và các vật dụng cần thiết lại khó kiếm.’ Này các Tỳ-kheo, ngay ngày hay đêm đó, không cần xin phép, Tỳ-kheo ấy nên rời bỏ người ấy, không đi theo.
  2. Khi sống gần người này, các niệm chưa an trú thì không được an trú, tâm chưa định tĩnh thì không được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì không được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì không đạt, nhưng các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại dễ kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống gần người này, các niệm không an trú, tâm không định tĩnh, lậu hoặc không đoạn tận, an ổn tối thượng không đạt, dù các vật dụng cần thiết dễ kiếm. Nhưng ta xuất gia không phải vì y phục, thức ăn, chỗ nằm, hay thuốc trị bệnh, mà vì từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Vậy mà ở đây, các niệm không an trú, tâm không định tĩnh, lậu hoặc không đoạn tận, an ổn tối thượng không đạt.’ Này các Tỳ-kheo, với suy nghĩ này, không cần xin phép, Tỳ-kheo ấy nên rời bỏ người ấy, không đi theo.
  3. Khi sống gần người này, các niệm chưa an trú thì được an trú, tâm chưa định tĩnh thì được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì được đạt, nhưng các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại khó kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống gần người này, các niệm được an trú, tâm được định tĩnh, lậu hoặc được đoạn tận, an ổn tối thượng được đạt, dù các vật dụng cần thiết khó kiếm. Nhưng ta xuất gia không phải vì y phục, thức ăn, chỗ nằm, hay thuốc trị bệnh, mà vì từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Và ở đây, các niệm được an trú, tâm được định tĩnh, lậu hoặc được đoạn tận, an ổn tối thượng được đạt.’ Này các Tỳ-kheo, với suy nghĩ này, Tỳ-kheo ấy nên ở lại gần người ấy, không rời đi.
  4. Khi sống gần người này, các niệm chưa an trú thì được an trú, tâm chưa định tĩnh thì được định tĩnh, các lậu hoặc chưa đoạn tận thì được đoạn tận, sự an ổn tối thượng thoát khỏi ách phược chưa đạt thì được đạt, và các vật dụng cần thiết – như y phục, thức ăn khất thực, chỗ nằm, thuốc trị bệnh – lại dễ kiếm. Tỳ-kheo ấy nên suy nghĩ: ‘Ta sống gần người này, các niệm được an trú, tâm được định tĩnh, lậu hoặc được đoạn tận, an ổn tối thượng được đạt, và các vật dụng cần thiết lại dễ kiếm.’ Này các Tỳ-kheo, Tỳ-kheo ấy nên ở lại gần người ấy trọn đời, không rời đi, dù có bị xua đuổi.”

Đức Thế Tôn dạy như thế. Các Tỳ-kheo hoan hỷ, đón nhận lời dạy của Ngài.

QR Code
QR Code https://thuvienphatgiao.org/kinh-khu-rung/

Hành trình đến con đường Giác ngộ

Xem thêm những bài viết

Kinh Tư Sát – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 47
Kinh Tư Sát – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 47
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Đại Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 46
Đại Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 46
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Tiểu Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 45
Tiểu Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 45
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Tiểu Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 44
Tiểu Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 44
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Rājagaha (Vương Xá), trong Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi sóc Kalandaka Nivāpa.…
Đại Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 43
Đại Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 43
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Kinh Veranjaka – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 42
Kinh Veranjaka – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 42
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…