Logo Thư Viện Phật Giáo
Kinh Pháp Môn Căn Bản – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 1

Kinh Pháp Môn Căn Bản - Trung Bộ Kinh - Bài Kinh Số 1

Kinh Pháp Môn Căn Bản - Trung Bộ Kinh - Bài Kinh Số 1

Kinh Mūlapariyāyasuttaṃ
Nguồn gốc và Hành vi của mọi suy nghĩ

Tôi nghe như vầy.

Lưu ý phần dịch

Bản dịch sát nghĩa và dễ hiểu. Nhưng nó tập trung vào việc diễn giải nghĩa đơn giản cho người đọc dễ hiểu hơn.
Được biên soạn bởi Thuvienphatgiao.org

Tôi nghe như vầy.

Một thời, Thế Tôn trú tại Ukkaṭṭha, trong khu rừng Subhaga (rừng Hạnh Phúc), dưới gốc cây Sa-la vương. Khi ấy, Thế Tôn gọi các tỳ-kheo:

“Này các tỳ-kheo!”.

Các tỳ-kheo bạch: “Bạch Thế Tôn!”.

Thế Tôn dạy rằng:

“Này các tỳ-kheo, Ta sẽ thuyết giảng về căn bản của tất cả các pháp. Hãy lắng nghe và suy xét kỹ, Ta sẽ nói.”

“Thưa vâng, bạch Thế Tôn.”

Thế Tôn dạy rằng:

(Phàm phu)

“Này các tỳ-kheo, một kẻ phàm phu ít học, không được thấy các bậc Thánh, không thuần thục pháp của bậc Thánh, không thực hành pháp của bậc Thánh; không được thấy các bậc Chân Nhân, không thuần thục pháp của bậc Chân Nhân, không thực hành pháp của bậc Chân Nhân, tưởng tri đất là đất.

Vì tưởng tri đất là đất, người ấy chấp vào đất, nghĩ về đất, liên hệ cái ‘ta’ với đất, xem đất là ‘ta’, nghĩ rằng: ‘Đất là của ta’, hoan hỷ trong đất.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, người ấy không hiểu rõ đất.

Người ấy tưởng tri nước là nước.

Vì tưởng tri nước là nước, người ấy chấp vào nước, nghĩ về nước, liên hệ cái ‘ta’ với nước, xem nước là ‘ta’, nghĩ rằng: ‘Nước là của ta’, hoan hỷ trong nước.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, người ấy không hiểu rõ nước.

Người ấy tưởng tri lửa là lửa.

Vì tưởng tri lửa là lửa, người ấy chấp vào lửa, nghĩ về lửa, liên hệ cái ‘ta’ với lửa, xem lửa là ‘ta’, nghĩ rằng: ‘Lửa là của ta’, hoan hỷ trong lửa.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, người ấy không hiểu rõ lửa.

Người ấy tưởng tri gió là gió.

Vì tưởng tri gió là gió, người ấy chấp vào gió, nghĩ về gió, liên hệ cái ‘ta’ với gió, xem gió là ‘ta’, nghĩ rằng: ‘Gió là của ta’, hoan hỷ trong gió.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, người ấy không hiểu rõ gió.

Người ấy tưởng tri chúng sinh là chúng sinh.

Vì tưởng tri chúng sinh là chúng sinh, người ấy chấp vào chúng sinh, nghĩ về chúng sinh, liên hệ cái ‘ta’ với chúng sinh, xem chúng sinh là ‘ta’, nghĩ rằng: ‘Chúng sinh là của ta’, hoan hỷ trong chúng sinh.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, người ấy không hiểu rõ chúng sinh.

Người ấy tưởng tri chư thiên là chư thiên
Người ấy tưởng tri Phạm thiên là Phạm thiên
Người ấy tưởng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên
Người ấy tưởng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên
Người ấy tưởng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên
Người ấy tưởng tri Thắng Giả (Abhibhū) là Thắng Giả

Người ấy tưởng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ
Người ấy tưởng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ
Người ấy tưởng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ
Người ấy tưởng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ

Người ấy tưởng tri cái được thấy là cái được thấy
Người ấy tưởng tri cái được nghe là cái được nghe
Người ấy tưởng tri cái được tư duy là cái được tư duy
Người ấy tưởng tri cái được nhận thức là cái được nhận thức

Người ấy tưởng tri sự đồng nhất là sự đồng nhất
Người ấy tưởng tri sự sai biệt là sự sai biệt
Người ấy tưởng tri tất cả là tất cả

Người ấy tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn.

Vì tưởng tri Niết-bàn là Niết-bàn, người ấy chấp vào Niết-bàn, nghĩ về Niết-bàn, liên hệ cái ‘ta’ với Niết-bàn, xem Niết-bàn là ‘ta’, nghĩ rằng: ‘Niết-bàn là của ta’, hoan hỷ trong Niết-bàn.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, người ấy không hiểu rõ Niết-bàn.

(Vị hữu học)

Này các tỳ-kheo, có tỳ-kheo hữu học, tâm chưa hoàn toàn thành tựu, đang sống với khát vọng hướng đến sự an ổn tối thượng, giải thoát khỏi khổ đau.

Vị ấy thắng tri đất là đất.

Vì thắng tri đất là đất, vị ấy không còn nghĩ đến đất, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đất, không nghĩ đến (tự ngã) như là đất, không nghĩ rằng: “Đất là của ta”, không hoan hỷ trong đất.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy có thể liễu tri đất.

Vị ấy thắng tri nước là nước.

Vì thắng tri nước là nước, vị ấy không còn nghĩ đến nước, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với nước, không nghĩ đến (tự ngã) như là nước, không nghĩ rằng: “Nước là của ta”, không hoan hỷ trong nước.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy có thể liễu tri nước.

Vị ấy thắng tri lửa là lửa.

Vì thắng tri lửa là lửa, vị ấy không còn nghĩ đến lửa, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với lửa, không nghĩ đến (tự ngã) như là lửa, không nghĩ rằng: “Lửa là của ta”, không hoan hỷ trong lửa.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy có thể liễu tri lửa.

Vị ấy thắng tri gió là gió.

Vì thắng tri gió là gió, vị ấy không còn nghĩ đến gió, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với gió, không nghĩ đến (tự ngã) như là gió, không nghĩ rằng: “Gió là của ta”, không hoan hỷ trong gió.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy có thể liễu tri gió.

Vị ấy thắng tri chúng sinh là chúng sinh
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên
Vị ấy thắng tri Phạm thiên là Phạm thiên
Vị ấy thắng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên
Vị ấy thắng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên
Vị ấy thắng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên
Vị ấy thắng tri Thắng Giả (Abhibhū) là Thắng Giả
Vị ấy thắng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ
Vị ấy thắng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ
Vị ấy thắng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ
Vị ấy thắng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ

Vị ấy thắng tri cái được thấy là cái được thấy
Vị ấy thắng tri cái được nghe là cái được nghe
Vị ấy thắng tri cái được tư duy là cái được tư duy
Vị ấy thắng tri cái được nhận thức là cái được nhận thức

Vị ấy thắng tri sự đồng nhất là sự đồng nhất
Vị ấy thắng tri sự sai biệt là sự sai biệt
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả

Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn.

Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không còn nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ rằng: “Niết-bàn là của ta”, không hoan hỷ trong Niết-bàn.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy có thể liễu tri Niết-bàn.

(Bậc A-la-hán)

Lại nữa, này các tỳ-kheo, có tỳ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt sạch, con đường tu hành đã viên mãn, các việc nên làm đã làm xong, gánh nặng đã được đặt xuống, lý tưởng cao thượng đã đạt được, các kiết sử ràng buộc đã tận trừ, với chánh trí mà giải thoát.

Vị ấy thắng tri đất là đất.

Vì thắng tri đất là đất, vị ấy không còn nghĩ đến đất, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đất, không nghĩ đến (tự ngã) như là đất, không nghĩ rằng: “Đất là của ta”, không hoan hỷ trong đất.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy đã liễu tri đất.

Vị ấy thắng tri nước là nước.

Vì thắng tri nước là nước, vị ấy không còn nghĩ đến nước, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với nước, không nghĩ đến (tự ngã) như là nước, không nghĩ rằng: “Nước là của ta”, không hoan hỷ trong nước.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy đã liễu tri nước.

Vị ấy thắng tri lửa là lửa.

Vì thắng tri lửa là lửa, vị ấy không còn nghĩ đến lửa, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với lửa, không nghĩ đến (tự ngã) như là lửa, không nghĩ rằng: “Lửa là của ta”, không hoan hỷ trong lửa.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy đã liễu tri lửa.

Vị ấy thắng tri gió là gió.

Vì thắng tri gió là gió, vị ấy không còn nghĩ đến gió, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với gió, không nghĩ đến (tự ngã) như là gió, không nghĩ rằng: “Gió là của ta”, không hoan hỷ trong gió.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy đã liễu tri gió.

Vị ấy thắng tri chúng sinh là chúng sinh
Vị ấy thắng tri chư thiên là chư thiên
Vị ấy thắng tri Phạm thiên là Phạm thiên
Vị ấy thắng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên
Vị ấy thắng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên
Vị ấy thắng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên
Vị ấy thắng tri Thắng Giả (Abhibhū) là Thắng Giả
Vị ấy thắng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ
Vị ấy thắng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ
Vị ấy thắng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ
Vị ấy thắng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ

Vị ấy thắng tri cái được thấy là cái được thấy
Vị ấy thắng tri cái được nghe là cái được nghe
Vị ấy thắng tri cái được tư duy là cái được tư duy
Vị ấy thắng tri cái được nhận thức là cái được nhận thức

Vị ấy thắng tri sự đồng nhất là sự đồng nhất
Vị ấy thắng tri sự sai biệt là sự sai biệt
Vị ấy thắng tri tất cả là tất cả

Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn.

Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, vị ấy không còn nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ đến (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ rằng: “Niết-bàn là của ta”, không hoan hỷ trong Niết-bàn.

Vì sao vậy? Ta nói rằng, vị ấy đã liễu tri Niết-bàn.

(Bậc A-la-hán đã đoạn tận tham dục)

Lại nữa, này các tỳ-kheo, có tỳ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt sạch, con đường tu hành đã viên mãn, các việc nên làm đã làm xong, gánh nặng đã được đặt xuống, lý tưởng cao thượng đã đạt được, các kiết sử ràng buộc đã tận trừ, với chánh trí mà giải thoát.

Vị ấy không có tham dục, vì tham dục đã được đoạn trừ.

Vì thế, vị ấy thắng tri đất là đất, không nghĩ đến đất, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đất, không nghĩ đến (tự ngã) như là đất, không nghĩ rằng: “Đất là của ta”, không hoan hỷ trong đất.

Vì sao vậy? Vì vị ấy không còn tham dục.

Vị ấy thắng tri nước là nước
Vị ấy thắng tri lửa là lửa
Vị ấy thắng tri gió là gió
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn

Vì sao vậy? Vì vị ấy không còn tham dục, tham dục đã được đoạn trừ.

(Bậc A-la-hán đã đoạn tận sân hận)

Lại nữa, này các tỳ-kheo, có tỳ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt sạch, con đường tu hành đã viên mãn, các việc nên làm đã làm xong, gánh nặng đã được đặt xuống, lý tưởng cao thượng đã đạt được, các kiết sử ràng buộc đã tận trừ, với chánh trí mà giải thoát.

Vị ấy không có sân hận, vì sân hận đã được đoạn trừ.

Vì thế, vị ấy thắng tri đất là đất, không nghĩ đến đất, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đất, không nghĩ đến (tự ngã) như là đất, không nghĩ rằng: “Đất là của ta”, không hoan hỷ trong đất.

Vì sao vậy? Vì vị ấy không còn sân hận.

Vị ấy thắng tri nước là nước
Vị ấy thắng tri lửa là lửa
Vị ấy thắng tri gió là gió
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn

Vì sao vậy? Vì vị ấy không còn sân hận, sân hận đã được đoạn trừ.

(Bậc A-la-hán đã đoạn tận si mê)

Lại nữa, này các tỳ-kheo, có tỳ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đã dứt sạch, con đường tu hành đã viên mãn, các việc nên làm đã làm xong, gánh nặng đã được đặt xuống, lý tưởng cao thượng đã đạt được, các kiết sử ràng buộc đã tận trừ, với chánh trí mà giải thoát.

Vị ấy không có si mê, vì si mê đã được đoạn trừ.

Vì thế, vị ấy thắng tri đất là đất, không nghĩ đến đất, không nghĩ đến (tự ngã) đối chiếu với đất, không nghĩ đến (tự ngã) như là đất, không nghĩ rằng: “Đất là của ta”, không hoan hỷ trong đất.

Vì sao vậy? Vì vị ấy không còn si mê.

Vị ấy thắng tri nước là nước
Vị ấy thắng tri lửa là lửa
Vị ấy thắng tri gió là gió
Vị ấy thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn

Vì sao vậy? Vì vị ấy không còn si mê, si mê đã được đoạn trừ.

(Đấng Như Lai – I)

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại.

Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại.

Vì sao vậy? Ta nói: Như Lai đã liễu tri địa đại.

Như Lai thắng tri thủy đại là thủy đại.

Vì thắng tri thủy đại là thủy đại, Như Lai không nghĩ đến thủy đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với thủy đại, không nghĩ (tự ngã) như là thủy đại, không nghĩ: “Thủy đại là của ta”, không dục hỷ thủy đại.

Vì sao vậy? Ta nói: Như Lai đã liễu tri thủy đại.

Như Lai thắng tri hỏa đại là hỏa đại.

Vì thắng tri hỏa đại là hỏa đại, Như Lai không nghĩ đến hỏa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với hỏa đại, không nghĩ (tự ngã) như là hỏa đại, không nghĩ: “Hỏa đại là của ta”, không dục hỷ hỏa đại.

Vì sao vậy? Ta nói: Như Lai đã liễu tri hỏa đại.

Như Lai thắng tri phong đại là phong đại.

Vì thắng tri phong đại là phong đại, Như Lai không nghĩ đến phong đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với phong đại, không nghĩ (tự ngã) như là phong đại, không nghĩ: “Phong đại là của ta”, không dục hỷ phong đại.

Vì sao vậy? Ta nói: Như Lai đã liễu tri phong đại.

Như Lai thắng tri sanh vật là sanh vật
Như Lai thắng tri chư Thiên là chư Thiên
Như Lai thắng tri Phạm thiên là Phạm thiên
Như Lai thắng tri Quang âm thiên là Quang âm thiên
Như Lai thắng tri Biến tịnh thiên là Biến tịnh thiên
Như Lai thắng tri Quảng quả thiên là Quảng quả thiên
Như Lai thắng tri Thắng Giả (Abhibhù) là Thắng Giả
Như Lai thắng tri Không vô biên xứ là Không vô biên xứ
Như Lai thắng tri Thức vô biên xứ là Thức vô biên xứ
Như Lai thắng tri Vô sở hữu xứ là Vô sở hữu xứ
Như Lai thắng tri Phi tưởng phi phi tưởng xứ là Phi tưởng phi phi tưởng xứ

Như Lai thắng tri sở kiến là sở kiến
Như Lai thắng tri sở văn là sở văn
Như Lai thắng tri sở tư niệm là sở tư niệm
Như Lai thắng tri sở tri là sở tri

Như Lai thắng tri đồng nhất là đồng nhất
Như Lai thắng tri sai biệt là sai biệt
Như Lai thắng tri tất cả là tất cả

Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn.

Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn.

Vì sao vậy? Ta nói: Như Lai đã liễu tri Niết-bàn.

(Đấng Như Lai – II)

Này các Tỷ-kheo, Như Lai là bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thắng tri địa đại là địa đại.

Vì thắng tri địa đại là địa đại, Như Lai không nghĩ đến địa đại, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với địa đại, không nghĩ (tự ngã) như là địa đại, không nghĩ: “Địa đại là của ta”, không dục hỷ địa đại.

Vì sao vậy?

Vì Như Lai biết rằng:

  • “Dục hỷ là căn bản của khổ đau.
  • Từ hữu, sinh khởi lên.
  • Từ sinh, già và chết đến với loài hữu tình.”

Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:

  • Như Lai đã diệt trừ hoàn toàn ái dục.
  • Đã ly tham, đoạn diệt, xả ly.
  • Đã từ bỏ tất cả ái dục.
  • Đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

Như Lai thắng tri thủy đại là thủy đại
Như Lai thắng tri hỏa đại là hỏa đại
Như Lai thắng tri phong đại là phong đại
Như Lai thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn

Vì thắng tri Niết-bàn là Niết-bàn, Như Lai không nghĩ đến Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) đối chiếu với Niết-bàn, không nghĩ (tự ngã) như là Niết-bàn, không nghĩ: “Niết-bàn là của ta”, không dục hỷ Niết-bàn.

Vì sao vậy?

Vì Như Lai biết rằng:

  • “Dục hỷ là căn bản của khổ đau.
  • Từ hữu, sinh khởi lên.
  • Từ sinh, già và chết đến với loài hữu tình.”

Do vậy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng:

  • Như Lai đã diệt trừ hoàn toàn ái dục.
  • Đã ly tham, đoạn diệt, xả ly.
  • Đã từ bỏ tất cả ái dục.
  • Đã chứng đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.

(Kết thúc bài kinh)

Như vậy, Thế Tôn đã thuyết giảng.
Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy của Thế Tôn.

Lưu ý phần dịch

Bản dịch sát nghĩa và dễ hiểu. Nhưng nó tập trung vào việc diễn giải nghĩa đơn giản cho người đọc dễ hiểu hơn.
Được biên soạn bởi Thuvienphatgiao.org

QR Code
QR Code https://thuvienphatgiao.org/kinh-phap-mon-can-ban-trung-bo-kinh/

Hành trình đến con đường Giác ngộ

Xem thêm những bài viết

Kinh Tư Sát – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 47
Kinh Tư Sát – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 47
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Đại Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 46
Đại Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 46
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Tiểu Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 45
Tiểu Kinh Pháp Hành – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 45
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Tiểu Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 44
Tiểu Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 44
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Rājagaha (Vương Xá), trong Veluvana (Trúc Lâm), tại chỗ nuôi sóc Kalandaka Nivāpa.…
Đại Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 43
Đại Kinh Phương Quảng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 43
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…
Kinh Veranjaka – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 42
Kinh Veranjaka – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 42
Tôi nghe như vầy: Một thời, Đức Thế Tôn ngự tại Sāvatthi (Xá-vệ), trong Jetavana (Kỳ-đà Lâm), tại tịnh xá của ông Anāthapiṇḍika (Cấp…