Tôi nghe như thế này:
Vào một thời, Đức Thế Tôn ngự tại thành Xá-vệ, trong Kỳ-đà Lâm, khu vườn của ông Cấp Cô Độc.
Sáng hôm ấy, Đức Thế Tôn đắp y, cầm bát, vào Xá-vệ khất thực. Cùng lúc, nhiều Tỳ-kheo đến chỗ Tôn giả Ānanda, thưa:
“Này bạn đạo Ānanda, lâu rồi chúng tôi chưa được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp trực tiếp. Mong bạn đạo giúp chúng tôi được nghe pháp từ Ngài!”
— “Các bạn đạo hãy đến tinh thất của Bà-la-môn Rammaka, ở đó các bạn sẽ được nghe Đức Thế Tôn thuyết pháp.”
— “Thưa vâng, bạn đạo.”
Các Tỳ-kheo đáp lời Tôn giả Ānanda. Sau khi khất thực xong, ăn trưa và trở về, Đức Thế Tôn gọi Tôn giả Ānanda:
“Này Ānanda, ta cùng ngươi đến Đông Viên, Lộc Mẫu Giảng Đường nghỉ trưa.”
— “Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn.”
Tôn giả Ānanda đáp lời, rồi cùng Đức Thế Tôn đến Đông Viên nghỉ trưa. Chiều đến, xuất thiền, Đức Thế Tôn nói:
“Này Ānanda, ta cùng ngươi đến Pubbakoṭṭhaka rửa tay chân.”
— “Thưa vâng, bạch Đức Thế Tôn.”
Họ đến Pubbakoṭṭhaka, Đức Thế Tôn rửa tay chân, đứng trên bờ, đắp một y, phơi khô tay chân. Tôn giả Ānanda thưa:
“Bạch Đức Thế Tôn, tinh thất của Bà-la-môn Rammaka ở gần đây, nơi ấy khả ái, an vui. Mong Đức Thế Tôn từ bi đến đó!”
Đức Thế Tôn im lặng nhận lời, rồi đi đến tinh thất của Bà-la-môn Rammaka. Lúc ấy, nhiều Tỳ-kheo đang họp bàn pháp. Đức Thế Tôn đứng ngoài cửa chờ họ说完, đằng hắng, gõ cửa. Các Tỳ-kheo mở cửa, Đức Thế Tôn vào, ngồi trên chỗ đã chuẩn bị, hỏi:
“Này các Tỳ-kheo, các ngươi đang bàn gì? Chuyện gì bị gián đoạn?”
— “Bạch Đức Thế Tôn, chúng con bàn về Ngài, và câu chuyện bị gián đoạn khi Ngài đến.”
— “Lành thay! Các thiện nam tử vì tin而出 gia, họp nhau bàn pháp là tốt. Khi họp nhau, nên bàn pháp hoặc giữ im lặng bậc Thánh.”
(Hai Loại Tầm Cầu)
“Này các Tỳ-kheo, có hai loại tầm cầu: phi Thánh cầu và Thánh cầu.
Phi Thánh cầu là gì? Là người tự bị sinh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm, lại tìm cầu những thứ bị sinh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm.
Cái bị sinh là gì? Vợ con, tôi tớ, dê cừu, gà heo, voi bò ngựa, vàng bạc – những thứ này bị sinh. Người ấy tự bị sinh, lại nắm giữ, mê đắm chúng.
Cái bị già là gì? Vợ con, tôi tớ, dê cừu, gà heo, voi bò ngựa, vàng bạc – những thứ này bị già. Người ấy tự bị già, lại nắm giữ, mê đắm chúng.
Cái bị bệnh, chết, sầu, ô nhiễm cũng vậy – vợ con, tôi tớ, dê cừu, gà heo, voi bò ngựa, vàng bạc đều bị bệnh, chết, sầu, ô nhiễm. Người ấy tự bị như vậy, lại nắm giữ, mê đắm chúng. Đó là phi Thánh cầu.
Thánh cầu là gì? Là người tự bị sinh, biết rõ nguy hại của sinh, tìm cái không sinh, Niết-bàn an ổn tối thượng; tự bị già, biết nguy hại của già, tìm cái không già, Niết-bàn; tự bị bệnh, tìm cái không bệnh; tự bị chết, tìm cái bất tử; tự bị sầu, tìm cái không sầu; tự bị ô nhiễm, biết nguy hại của ô nhiễm, tìm cái không ô nhiễm, Niết-bàn an ổn tối thượng. Đó là Thánh cầu.”
(Thánh Cầu Giải Thoát)
“Này các Tỳ-kheo, trước khi giác ngộ, khi còn là Bồ-tát, Ta tự bị sinh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm, lại tìm cầu những thứ ấy. Rồi Ta nghĩ: ‘Sao Ta tự bị sinh mà tìm cái bị sinh, tự bị già mà tìm cái bị già…? Ta nên biết nguy hại của sinh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm, tìm cái không sinh, không già, không bệnh, bất tử, không sầu, không ô nhiễm – Niết-bàn an ổn tối thượng.’
Khi còn trẻ, tóc đen, tuổi thanh xuân tràn đầy, dù cha mẹ khóc than không muốn, Ta cạo râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, tìm cái chí thiện, con đường an tịnh tối thượng. Ta đến gặp Alāra Kālāma, thưa: ‘Này bạn đạo Kālāma, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp này.’ Ông đáp: ‘Hãy ở lại. Pháp này khiến người trí sớm tự tri, tự chứng như bổn sư.’ Ta nhanh chóng thông suốt pháp ấy, nói lại giáo lý của bậc trí, tự thấy mình ngang họ.
Ta nghĩ: ‘Alāra Kālāma không chỉ dựa vào tin mà tuyên bố pháp này; ông phải biết, thấy, rồi an trú.’ Ta hỏi: ‘Bạn đạo, ông tự tri, tự chứng đến mức nào?’ Ông đáp: ‘Đến Vô sở hữu xứ.’ Ta nghĩ: ‘Ông có tin, tinh tấn, niệm, định, tuệ; Ta cũng vậy. Ta sẽ chứng pháp ông tuyên bố.’ Ta sớm tự tri, tự chứng, an trú Vô sở hữu xứ, hỏi lại: ‘Có phải ông chứng đến đây?’ Ông đáp: ‘Đúng vậy.’ Ta nói: ‘Tôi cũng vậy.’ Ông thưa: ‘Thật lợi ích khi gặp bạn đạo như ngài. Pháp tôi chứng, ngài chứng; pháp ngài chứng, tôi chứng. Tôi thế nào, ngài thế ấy. Hãy cùng chăm sóc hội chúng này!’ Alāra Kālāma đặt Ta ngang hàng, tôn kính Ta. Nhưng Ta nghĩ: ‘Pháp này không dẫn đến ly tham, đoạn diệt, giác ngộ, Niết-bàn, chỉ đến Vô sở hữu xứ.’ Ta không kính pháp ấy, bỏ đi.
Ta đến gặp Uddaka Ramaputta, thưa: ‘Tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp này.’ Ông đáp: ‘Hãy ở lại, pháp này khiến người trí sớm tự chứng như bổn sư.’ Ta nhanh chóng thông suốt, nói lại giáo lý bậc trí, tự thấy mình ngang họ. Ta nghĩ: ‘Rama không chỉ dựa vào tin; ông phải biết, thấy.’ Ta hỏi Uddaka: ‘Rama chứng đến đâu?’ Ông đáp: ‘Đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.’ Ta nghĩ: ‘Rama có tin, tinh tấn, niệm, định, tuệ; Ta cũng vậy. Ta sẽ chứng pháp Rama tuyên bố.’ Ta sớm tự tri, tự chứng, an trú Phi tưởng phi phi tưởng xứ, hỏi: ‘Có phải Rama chứng đến đây?’ Ông đáp: ‘Đúng vậy.’ Ta nói: ‘Tôi cũng vậy.’ Ông thưa: ‘Thật lợi ích khi gặp bạn đạo như ngài. Pháp tôi chứng, ngài chứng… Hãy cùng chăm sóc hội chúng này!’ Uddaka đặt Ta ngang hàng, tôn kính Ta. Nhưng Ta nghĩ: ‘Pháp này không dẫn đến ly tham, giác ngộ, Niết-bàn, chỉ đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ.’ Ta không kính pháp ấy, bỏ đi.
Ta đi khắp Ma-kiệt-đà, đến Ưu-lâu-tần-loa, thấy nơi khả ái: rừng rậm yên tĩnh, sông trong, chỗ lội dễ dàng, làng mạc quanh đó tiện khất thực. Ta nghĩ: ‘Nơi này đủ để tinh tấn.’ Ta ngồi xuống đó.”
(Giác Ngộ)
“Này các Tỳ-kheo, Ta tự bị sinh, biết nguy hại của sinh, tìm cái không sinh, chứng Niết-bàn an ổn tối thượng; tự bị già, tìm cái không già, chứng Niết-bàn; tự bị bệnh, tìm cái không bệnh; tự bị chết, tìm cái bất tử; tự bị sầu, tìm cái không sầu; tự bị ô nhiễm, tìm cái không ô nhiễm, chứng Niết-bàn an ổn tối thượng. Tri kiến khởi lên: ‘Giải thoát của Ta vững chắc, đây là đời cuối, không còn tái sinh.’”
(Quyết Định Thuyết Pháp)
“Ta nghĩ: ‘Pháp Ta chứng sâu kín, khó thấy, vi diệu, chỉ người trí hiểu. Chúng sinh mê đắm dục, khó thấy Y Tánh Duyên Khởi, khó thấy Pháp tịch tịnh, ái diệt, Niết-bàn. Nếu Ta thuyết pháp mà họ không hiểu, thật khổ cho Ta!’ Rồi các kệ chưa từng nghe khởi lên:
‘Chánh pháp khó chứng ngộ,
Sao Ta giảng cho ai?
Người mê tham sân si,
Khó thấy pháp vi diệu.’
Ta nghiêng về an tịnh, không muốn thuyết pháp. Phạm Thiên Sahampati biết ý Ta, nghĩ: ‘Thế giới sẽ diệt vong nếu Như Lai không thuyết pháp!’ Ông rời Phạm Thiên, hiện trước Ta, đắp y một vai, chắp tay thưa: ‘Bạch Đức Thế Tôn, hãy thuyết pháp! Có chúng sinh ít bụi đời sẽ hiểu.’ Ông nói thêm kệ:
‘Xưa Ma-kiệt-đà,
Pháp bất tịnh trỗi,
Hãy mở cửa bất tử,
Cho họ nghe Chánh pháp.’
Vì từ bi, Ta dùng Phật nhãn nhìn thế giới, thấy kẻ ít bụi, nhiều bụi, lợi căn, độn căn, thiện tánh, ác tánh, dễ dạy, khó dạy – như hoa sen trong hồ: có hoa dưới nước, có hoa ngang mặt nước, có hoa vượt khỏi nước không ướt. Ta đáp Phạm Thiên bằng kệ:
‘Cửa bất tử mở rộng,
Ai nghe hãy đến gần.
Ta từng ngại phiền toái,
Không muốn giảng Chánh pháp.’
Phạm Thiên nghĩ: ‘Ta đã mở cơ hội cho Đức Thế Tôn thuyết pháp,’ đảnh lễ, nhiễu quanh, rồi biến mất.
Ta nghĩ: ‘Ta thuyết pháp cho ai đầu tiên?’ Ta nhớ đến Alāra Kālāma, bậc trí, ít bụi đời, nhưng chư Thiên báo: ‘Ông mất bảy ngày rồi.’ Tri kiến xác nhận điều ấy. Ta tiếc: ‘Nếu ông nghe pháp, ông sẽ hiểu.’ Ta lại nghĩ đến Uddaka Ramaputta, nhưng chư Thiên báo: ‘Ông mất hôm qua.’ Tri kiến xác nhận. Ta tiếc: ‘Nếu ông nghe pháp, ông sẽ hiểu.’ Rồi Ta nhớ nhóm năm Tỳ-kheo đã giúp Ta khi tinh tấn. Ta thấy họ ở Ba-la-nại, vườn Lộc Uyển, bèn rời Ưu-lâu-tần-loa đi đến đó.”
(Khai Giảng Chánh Pháp)
“Trên đường giữa Gaya và Bồ-đề, tà mạng Upaka thấy Ta, hỏi: ‘Căn ngài sáng suốt, da ngài thanh tịnh. Ngài xuất gia vì ai?’ Ta đáp kệ:
‘Ta thắng tất cả,
Trí khắp mọi nơi,
Không nhiễm pháp nào,
Xả ly mọi thứ,
Tự giác giải thoát,
Y ai mà được?
Không thầy, không bạn,
Thế gian vô song,
A-la-hán đây,
Đạo Sư tối thượng.’
Upaka nói: ‘Mong là vậy,’ lắc đầu, đi hướng khác.
Ta đến Ba-la-nại, vườn Lộc Uyển. Nhóm năm Tỳ-kheo thấy Ta, thỏa thuận: ‘Sa-môn Gotama sống sung túc, bỏ tinh tấn, ta không chào, không đứng, không lấy y bát, chỉ đặt chỗ ngồi.’ Nhưng khi Ta đến gần, họ không giữ lời: người lấy y bát, người chuẩn bị chỗ, người dâng nước rửa chân, dù vẫn gọi Ta là ‘Hiền giả.’ Ta nói: ‘Đừng gọi Ta là Hiền giả. Ta là A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Pháp bất tử đã chứng, Ta dạy các ngươi. Thực hành đúng, các ngươi sẽ chứng mục đích tối thượng.’
Họ thưa: ‘Hiền giả Gotama, với lối sống trước, ngài không chứng pháp siêu nhân; nay sống sung túc, sao chứng được?’ Ta đáp: ‘Ta không sống sung túc, không bỏ tinh tấn. Ta là A-la-hán, Chánh Đẳng Giác…’ Họ hỏi lại hai lần, Ta đáp như vậy. Lần thứ ba, Ta hỏi: ‘Trước đây Ta có nói thế không?’ Họ thưa: ‘Không.’ Ta nói: ‘Ta là A-la-hán, Chánh Đẳng Giác…’
Ta thuyết phục họ. Ta dạy hai người, ba người đi khất thực, đồ ăn đủ cho sáu. Rồi Ta dạy ba, hai đi khất thực, đồ ăn đủ cho sáu. Nhóm năm Tỳ-kheo, được Ta dạy, biết nguy hại của sinh, già, bệnh, chết, sầu, ô nhiễm, tìm cái không sinh, không già, không bệnh, bất tử, không sầu, không ô nhiễm, chứng Niết-bàn an ổn tối thượng. Tri kiến khởi lên: ‘Giải thoát của ta vững chắc, đây là đời cuối, không còn tái sinh.’”
(Năm Dục)
“Này các Tỳ-kheo, có năm dục: sắc, thanh, hương, vị, xúc khả ái, hấp dẫn. Sa-môn, Bà-la-môn nào mê đắm chúng, không thấy nguy hại, không biết cách thoát, bị Ác ma sai khiến – như nai sa bẫy, không thoát thợ săn.
Sa-môn, Bà-la-môn nào không mê đắm, thấy nguy hại, biết cách thoát – như nai không sa bẫy, thoát thợ săn. Tỳ-kheo xa dục, chứng Thiền thứ nhất: hỷ lạc do ly dục, có tầm, tứ; chứng Thiền thứ hai: hỷ lạc do định, không tầm, tứ; chứng Thiền thứ ba: xả niệm lạc trú; chứng Thiền thứ tư: không khổ, không lạc; vượt sắc tưởng, chứng Không vô biên xứ; vượt lên, chứng Thức vô biên xứ; vượt lên, chứng Vô sở hữu xứ; vượt lên, chứng Phi tưởng phi phi tưởng xứ; vượt lên, chứng Diệt thọ tưởng định, diệt lậu hoặc. Tỳ-kheo ấy làm Ác ma mù mắt, xóa dấu vết, vượt tầm tay Ác ma, an tâm đi, đứng, ngồi, nằm.”
Đức Thế Tôn dạy như thế. Các Tỳ-kheo hoan hỷ, đón nhận lời dạy của Ngài.
Hành trình đến con đường Giác ngộ