Logo Thư Viện Phật Giáo
Kinh Upàli – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 56

Kinh Upàli – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 56

Như vầy tôi nghe.

Một thời, Thế Tôn ở tại Nālandā, trong rừng Pāvārikamba.

Lúc bấy giờ, Nigaṇṭha Nāṭaputta trú tại Nālandā cùng với đại chúng Nigaṇṭha (Ly Hệ phái). Rồi Nigaṇṭha Dīghatapasī (Trường Khổ Hạnh Giả), sau khi đi khất thực ở Nālandā, ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến rừng Pāvārikamba, chỗ Thế Tôn ở. Sau khi đến, vị ấy nói lên những lời thăm hỏi Thế Tôn. Sau khi nói lên những lời thăm hỏi thân hữu, vị ấy đứng một bên. Thế Tôn nói với Nigaṇṭha Dīghatapasī đang đứng một bên:

— Này Tapassī, ở đây có ghế ngồi. Nếu ông muốn, hãy ngồi xuống.

Khi nghe nói vậy, Nigaṇṭha Dīghatapasī lấy một ghế thấp, rồi ngồi xuống một bên. Và Thế Tôn nói với Nigaṇṭha Dīghatapasī đang ngồi một bên:

— Này Tapassī, Nigaṇṭha Nāṭaputta chủ trương có bao nhiêu loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

— Hiền giả Gotama, Nigaṇṭha Nāṭaputta không có thông lệ chủ trương “nghiệp, nghiệp”. Hiền giả Gotama, Nigaṇṭha Nāṭaputta có thông lệ chủ trương “phạt, phạt”.

— Này Tapassī, Nigaṇṭha Nāṭaputta chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

— Hiền giả Gotama, Nigaṇṭha Nāṭaputta chủ trương có ba loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân phạt, khẩu phạt, ý phạt.

— Này Tapassī, nhưng có phải thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác?

— Hiền giả Gotama, thân phạt khác, khẩu phạt khác, ý phạt khác.

— Này Tapassī, ba loại phạt này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigaṇṭha Nāṭaputta chủ trương loại phạt nào là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Thân phạt chăng? Khẩu phạt chăng? Ý phạt chăng?

— Hiền giả Gotama, ba loại phạt này được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Nigaṇṭha Nāṭaputta chủ trương thân phạt là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp; khẩu phạt không bằng được; ý phạt không bằng được.

— Này Tapassī, có phải ông nói thân phạt?

— Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.

— Này Tapassī, có phải ông nói thân phạt?

— Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.

— Này Tapassī, có phải ông nói thân phạt?

— Hiền giả Gotama, tôi nói thân phạt.

Như vậy, Thế Tôn trong cuộc đàm thoại này đã làm cho Nigaṇṭha Dīghatapasī xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm của mình.

Khi nghe nói vậy, Nigaṇṭha Dīghatapasī nói với Thế Tôn:

— Hiền giả Gotama, hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại phạt để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

— Này Tapassī, Như Lai không có thông lệ chủ trương “phạt, phạt”. Này Tapassī, Như Lai có thông lệ chủ trương “nghiệp, nghiệp”.

— Hiền giả Gotama, hiền giả chủ trương có bao nhiêu loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp?

— Này Tapassī, Ta chủ trương có ba loại nghiệp để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp, tức là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.

— Hiền giả Gotama, nhưng có phải thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác?

— Này Tapassī, thân nghiệp khác, khẩu nghiệp khác, ý nghiệp khác.

— Hiền giả Gotama, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, hiền giả chủ trương loại nghiệp nào là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp? Thân nghiệp chăng? Khẩu nghiệp chăng? Ý nghiệp chăng?

— Này Tapassī, ba loại nghiệp này, được chia chẻ như vậy, được phân biệt như vậy, Ta chủ trương ý nghiệp là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp; thân nghiệp không bằng được; khẩu nghiệp không bằng được.

— Hiền giả Gotama, có phải hiền giả nói ý nghiệp?

— Này Tapassī, Ta nói ý nghiệp.

— Hiền giả Gotama, có phải hiền giả nói ý nghiệp?

— Này Tapassī, Ta nói ý nghiệp.

— Hiền giả Gotama, có phải hiền giả nói ý nghiệp?

— Này Tapassī, Ta nói ý nghiệp.

Như vậy, Nigaṇṭha Dīghatapasī trong cuộc đàm thoại này, sau khi đã làm Thế Tôn xác nhận cho đến lần thứ ba quan điểm của mình, liền từ chỗ ngồi đứng dậy và đi đến chỗ Nigaṇṭha Nāṭaputta.

Lúc bấy giờ, Nigaṇṭha Nāṭaputta đang ngồi với một đại chúng gia chủ rất đông, do gia chủ Upāli người thuộc làng Bālaka làm thượng thủ. Nigaṇṭha Nāṭaputta thấy Nigaṇṭha Dīghatapasī từ xa đi đến. Sau khi thấy, liền nói với Nigaṇṭha Dīghatapasī:

— Này Tapassī, ông từ đâu đi đến, trong ban ngày (nóng bức) như thế này?

— Thưa Tôn giả, con từ Sa-môn Gotama đi đến đây.

— Này Tapassī, ông có đàm luận gì với Sa-môn Gotama không?

— Thưa Tôn giả, con cùng với Sa-môn Gotama có cuộc đàm thoại.

— Này Tapassī, cuộc đàm thoại của ông với Sa-môn Gotama như thế nào?

Rồi Nigaṇṭha Dīghatapasī kể lại cho Nigaṇṭha Nāṭaputta nghe một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Sa-môn Gotama. Được nghe vậy, Nigaṇṭha Nāṭaputta nói với Dīghatapasī:

— Tốt lành thay! Tốt lành thay! Tapassī! Sa-môn Gotama đã được Nigaṇṭha Dīghatapasī trả lời, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy của bậc Đạo sư. Làm sao một “ý phạt” hèn kém có thể sáng chói, so sánh với “thân phạt” cường đại này được? Thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp; khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

Khi được nói vậy, gia chủ Upāli thưa với Nigaṇṭha Nāṭaputta:

— Tốt lành thay! Tốt lành thay! Tôn giả Tapassī! Sa-môn Gotama đã được Tôn giả Tapassī trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy của bậc Đạo sư. Làm sao một “ý phạt” hèn kém có thể sáng chói, so sánh với “thân phạt” cường đại này được? Thân phạt thật tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp; khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Nếu Sa-môn Gotama làm con xác nhận như đã làm Tôn giả Tapassī xác nhận, thời cũng như một người lực sĩ tay nắm chặt lông một con cừu có lông dài, có thể kéo tới, giật lui, vần quanh; cũng vậy, con sẽ dùng lời nói với lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama.

Cũng như một người lực sĩ nấu rượu, sau khi nhận chìm một thùng rượu lớn xuống hồ nước sâu, nắm một góc thùng, có thể kéo tới, giật lui, vần quanh; cũng vậy, con sẽ dùng lời nói với lời nói, kéo tới, giật lui, vần quanh Sa-môn Gotama.

Cũng như một lực sĩ nghiện rượu, sống phóng đãng, sau khi nắm góc một cái sàng, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh; cũng vậy, con sẽ dùng lời nói với lời nói, lắc qua, lắc lại, lắc xoay quanh Sa-môn Gotama.

Và cũng như một con voi lớn sáu mươi tuổi, sau khi lặn xuống một hồ nước sâu, lại chơi trò phun nước; cũng vậy, con nghĩ, con sẽ chơi trò chơi phun nước với Sa-môn Gotama.

Thưa Tôn giả, con sẽ đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này.

— Này Gia chủ, hãy đi và luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Vì rằng, này Gia chủ, chỉ có ta, hay Nigaṇṭha Dīghatapasī, hay ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama.

Khi được nói vậy, Nigaṇṭha Dīghatapasī nói với Nigaṇṭha Nāṭaputta:

— Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để gia chủ Upāli luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.

— Này Tapassī, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upāli trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama! Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upāli. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Chỉ có ta, Nigaṇṭha Dīghatapasī, và ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama.

Lần thứ hai cũng vậy… (như trên)… Lần thứ ba cũng vậy… Nigaṇṭha Dīghatapasī nói với Nigaṇṭha Nāṭaputta:

— Thưa Tôn giả, con không được hài lòng để gia chủ Upāli luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.

— Này Tapassī, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp gia chủ Upāli trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama! Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của gia chủ Upāli. Này Gia chủ, hãy đi luận chiến với Sa-môn Gotama trong cuộc đàm thoại này. Chỉ có ta, Nigaṇṭha Dīghatapasī, và ông mới có thể luận chiến với Sa-môn Gotama!

— Thưa vâng, Tôn giả.

Gia chủ Upāli vâng đáp Nigaṇṭha Nāṭaputta. Từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Nigaṇṭha Nāṭaputta, thân hữu hướng về Nigaṇṭha Nāṭaputta, rồi đi đến rừng xoài Pāvārika, chỗ Thế Tôn đang ở. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, gia chủ Upāli bạch Thế Tôn:

— Bạch Thế Tôn, không biết Nigaṇṭha Dīghatapasī có đến tại đây không?

— Này Gia chủ, Nigaṇṭha Dīghatapasī có đến tại đây.

— Bạch Thế Tôn, Thế Tôn có đàm thoại với Nigaṇṭha Dīghatapasī không?

— Này Gia chủ, Ta có đàm thoại với Nigaṇṭha Dīghatapasī.

— Bạch Thế Tôn, cuộc đàm thoại của Thế Tôn với Nigaṇṭha Dīghatapasī như thế nào?

Rồi Thế Tôn kể lại cho gia chủ Upāli một cách đầy đủ cuộc đàm thoại với Nigaṇṭha Dīghatapasī. Khi nghe nói vậy, gia chủ Upāli bạch Thế Tôn:

— Tốt lành thay! Tốt lành thay! Tôn giả Tapassī! Thế Tôn đã được Tôn giả Tapassī trả lời như vậy, một đệ tử đa văn đã hiểu đúng đắn lời dạy của bậc Đạo sư. Làm sao một “ý phạt” hèn kém có thể sáng chói, so sánh với “thân phạt” cường đại này được? Vì thân phạt thật là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu nghiệp không bằng được, ý nghiệp không bằng được.

— Này Gia chủ, nếu ông có thể đàm luận y cứ trên sự thật, thì ở đây có thể có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.

— Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigaṇṭha bệnh hoạn, đau khổ, bạo bệnh, từ chối nước lạnh, chỉ uống nước nóng. Người này, vì không được nước lạnh, nên mệnh chung. Này Gia chủ, theo Nigaṇṭha Nāṭaputta, người ấy tái sanh chỗ nào?

— Bạch Thế Tôn, có hàng chư Thiên được gọi là Manosatta (Ý Trước Thiên). Ở đấy, người ấy tái sanh. Vì sao vậy? Bạch Thế Tôn, vì người ấy chấp trước vào ý nên mệnh chung.

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ kỹ, ông hãy trả lời. Lời nói trước của ông không phù hợp với lời nói sau của ông! Lời nói sau của ông không phù hợp với lời nói trước của ông! Thế mà, này Gia chủ, ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.”

— Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người Nigaṇṭha được phòng hộ với sự phòng hộ của bốn loại chế giới, hoàn toàn tự chế ngự đối với nước, hoàn toàn chú tâm vào sự chế ngự đối với nước, hoàn toàn loại trừ đối với nước, hoàn toàn thấm nhuần với sự chế ngự đối với nước. Vị này, khi đi qua, khi đi lại, đã giết hại rất nhiều sinh vật nhỏ bé. Này Gia chủ, theo Nigaṇṭha Nāṭaputta, người ấy thọ quả báo gì?

— Bạch Thế Tôn, vì không có cố ý, nên Nigaṇṭha Nāṭaputta xem không phải là một đại tội.

— Này Gia chủ, nếu người ấy có cố ý, thì như thế nào?

— Bạch Thế Tôn, là một đại tội.

— Này Gia chủ, ý thức ấy, Nigaṇṭha Nāṭaputta xem thuộc về loại gì?

— Bạch Thế Tôn, thuộc về ý phạt.

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ, ông hãy trả lời. Lời nói trước của ông không phù hợp với lời nói sau của ông. Lời nói sau của ông không phù hợp với lời nói trước của ông. Thế mà, này Gia chủ, ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.”

— Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Có phải Nālandā này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật?

— Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Nālandā này là phú cường và phồn thịnh, dân chúng đông đúc, nhân dân trù mật.

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Ở đây, có người đi đến, với thanh kiếm đưa cao, người ấy nói: “Trong một sát-na, trong một giây phút, ta sẽ làm cho tất cả mọi người ở tại Nālandā này thành một đống thịt, thành một khối thịt.” Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Người ấy có thể trong một sát-na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nālandā này thành một đống thịt, thành một khối thịt, hay không?

— Bạch Thế Tôn, cho đến mười người, hai mươi người, ba mươi người, bốn mươi người, năm mươi người cũng không có thể, trong một sát-na, trong một giây phút, làm cho tất cả mọi người ở tại Nālandā này thành một đống thịt, thành một khối thịt; huống nữa là chỉ một người nhỏ bé, sao có thể chói sáng (làm được) điều ấy?

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Ở đây, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn đến, có thần thông lực, có tâm tự tại. Vị ấy nói như sau: “Ta sẽ làm cho Nālandā này trở thành tro tàn với một tâm sân hận.” Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Vị Sa-môn hay Bà-la-môn ấy, có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho Nālandā này trở thành tro tàn với một tâm sân hận hay không?

— Bạch Thế Tôn, cho đến mười Nālandā, hai mươi, ba mươi Nālandā, bốn mươi Nālandā, năm mươi Nālandā, vị Sa-môn hay vị Bà-la-môn ấy có thần thông lực, có tâm tự tại, có thể làm cho các Nālandā ấy trở thành tro tàn với một tâm sân hận; huống nữa là một Nālandā nhỏ bé này, sao có thể chói sáng mà thoát được?

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ, ông hãy trả lời. Lời nói trước của ông không phù hợp với lời nói sau của ông! Lời nói sau của ông không phù hợp với lời nói trước của ông! Thế mà, này Gia chủ, ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.”

— Bạch Thế Tôn, dầu Thế Tôn có nói như vậy, nhưng chỉ có thân phạt mới là tối trọng để tác thành ác nghiệp, để diễn tiến ác nghiệp. Khẩu phạt không bằng được, ý phạt không bằng được.

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Ông có nghe các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, và Mātanga đã trở lại thành rừng như trước?

— Bạch Thế Tôn, con có nghe: Các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, và Mātanga đã trở lại thành rừng như trước.

— Này Gia chủ, ông nghĩ thế nào? Có phải ông được nghe vì sao các rừng Dandaka, Kalinga, Mejjha, và Mātanga trở lại thành rừng như trước?

— Bạch Thế Tôn, con có nghe: Các rừng ấy trở lại thành rừng vì tâm sân hận của các vị ẩn sĩ.

— Gia chủ, Gia chủ! Sau khi suy nghĩ, ông hãy trả lời. Lời nói trước của ông không phù hợp với lời nói sau của ông! Lời nói sau của ông không phù hợp với lời nói trước của ông! Thế mà, này Gia chủ, ông đã nói như sau: “Bạch Thế Tôn, con sẽ đàm luận y cứ trên sự thật. Mong rằng ở đây sẽ có cuộc đàm thoại giữa chúng ta.”

— Bạch Thế Tôn, với ví dụ đầu tiên, con đã hoan hỷ, con đã thỏa mãn. Những gì con muốn là được nghe các vấn đáp sai biệt của Thế Tôn, nên con mới nghĩ đến việc đóng vai trò đối lập với Thế Tôn. Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh Pháp đã được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Vậy nay con quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y Tăng.

Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

— Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp đối với những người trứ danh như ông.

– Bạch Thế Tôn, con càng bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.” Bạch Thế Tôn, nếu các ngoại đạo được con làm đệ tử, họ sẽ trương cờ lên và tuyên bố: “Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử chúng tôi.” Nhưng Thế Tôn lại nói với con: “Này Gia chủ, hãy chín chắn suy tư. Chín chắn suy tư là tốt đẹp với những người trứ danh như Ông.” Bạch Thế Tôn, lần thứ hai, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

– Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigaṇṭha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với Ông!

– Bạch Thế Tôn, con lại bội phần hoan hỷ, bội phần thỏa mãn với những lời Thế Tôn nói với con: “Này Gia chủ, đã từ lâu gia đình của Ông như là giếng nước mưa nguồn cho các người Nigaṇṭha. Hãy cúng dường các món ăn cho những ai đến với các Ông.” Bạch Thế Tôn, con có nghe như sau: “Sa-môn Gotama đã nói: ‘Chỉ bố thí cho Ta, chớ bố thí cho các người khác. Chỉ bố thí cho các đệ tử Ta, chớ bố thí cho đệ tử những người khác. Chỉ bố thí cho Ta mới có phước lớn, bố thí những người khác không được phước lớn. Chỉ bố thí cho các đệ tử của Ta mới có phước lớn, bố thí cho các đệ tử của những người khác không có phước lớn.’” Nhưng Thế Tôn lại khuyến khích con bố thí cho các vị Nigaṇṭha. Bạch Thế Tôn, và chúng con ở đây sẽ biết thời nên làm. Bạch Thế Tôn, lần thứ ba, con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Thế Tôn nhận con làm cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

– Rồi Thế Tôn thuận thứ thuyết pháp cho Gia chủ Upāli, tức là thuyết về bố thí, thuyết về giới, thuyết về các cõi trời, trình bày sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự nhiễm ô của các dục lạc, và những lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tâm của Gia chủ Upāli đã sẵn sàng, đã nhu thuận, không bị triền cái, được phấn khởi, được hoan hỷ, Ngài mới thuyết những pháp được chư Phật tán dương và đề cao: Khổ, Tập, Diệt, Ðạo.

– Cũng như một tấm vải thuần trắng, khi các chấm đen đã được gột sạch, thì dễ thấm màu nhuộm; cũng vậy, chính tại chỗ ngồi ấy, pháp nhãn xa trần, ly cấu khởi lên nơi Gia chủ Upāli: “Phàm pháp gì được khởi lên, tất cả pháp ấy đều bị tiêu diệt.” Rồi Gia chủ Upāli thấy pháp, chứng pháp, ngộ pháp, thể nhập pháp, nghi hoặc tiêu trừ, do dự diệt tận, đạt được vô sở úy, không y cứ nơi ai khác đối với các pháp của bậc Đạo sư.

– Gia chủ Upāli bạch Thế Tôn: Bạch Thế Tôn, nay chúng con phải đi, chúng con có nhiều công việc, có nhiều phận sự phải làm.

– Này Gia chủ, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.

– Rồi Gia chủ Upāli hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, rồi đi về trú xá của mình. Sau khi đến, bèn nói với người giữ cửa như sau:

– Từ nay trở đi, này người gác cửa, ta sẽ đóng cửa đối với các nam Nigaṇṭha, các nữ Nigaṇṭha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu có vị Nigaṇṭha nào đến, ông hãy nói với vị ấy như sau: “Tôn giả, hãy đứng lại, chớ bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigaṇṭha, nữ Nigaṇṭha. Cửa sẽ không đóng đối với các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Sẽ có người đem ra tại đây cho Tôn giả.”

– Thưa vâng, Tôn giả.

– Người giữ cửa vâng đáp Gia chủ Upāli.

– Nigantha Dīghatapassi nghe như sau: “Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.” Rồi Nigantha Dīghatapassi đi đến chỗ Nigantha Nāṭaputta ở. Sau khi đến, liền nói với Nigantha Nāṭaputta:

– Thưa Tôn giả, tôi có nghe Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.

– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upāli trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upāli.

– Lần thứ hai… (như trên)… Lần thứ ba, Nigantha Dīghatapassi nói với Nigantha Nāṭaputta:

– Thưa Tôn giả, tôi có nghe Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama.

– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upāli trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upāli.

– Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi và tìm biết Gia chủ Upāli có thật sự trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.

– Này Tapassi, hãy đi và tìm biết Gia chủ Upāli có trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.

– Rồi Nigantha Dīghatapassi đi đến trú xá của Gia chủ Upāli. Người giữ cửa thấy Nigantha Dīghatapassi từ xa đi đến. Khi thấy vậy, liền nói với Nigantha Dīghatapassi:

– Thưa Tôn giả, hãy đứng ở đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với nam Nigaṇṭha, nữ Nigaṇṭha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Nếu Tôn giả cần đồ ăn, hãy đứng ở đây. Sẽ có người đem ra tại đây cho Tôn giả.

– Này Hiền giả, ta không cần đồ ăn.

– Nói xong, Nigantha Dīghatapassi đi trở lui, đến chỗ Nigantha Nāṭaputta ở. Sau khi đến, liền thưa với Nigantha Nāṭaputta:

– Thưa Tôn giả, sự thật là Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi không được hài lòng để Gia chủ Upāli luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư, Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo.” Thưa Tôn giả, nay Gia chủ Upāli của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.

– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upāli trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upāli.

– Lần thứ hai… (như trên)… Lần thứ ba, Nigantha Dīghatapassi nói với Nigantha Nāṭaputta:

– Thưa Tôn giả, sự thật là Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Về vấn đề này, tôi đã không đồng ý với Tôn giả và đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi không được yên lòng để Gia chủ Upāli luận chiến với Sa-môn Gotama. Thưa Tôn giả, Sa-môn Gotama là một huyễn sư. Sa-môn Gotama biết được huyễn thuật lôi cuốn những đệ tử ngoại đạo. Thưa Tôn giả, nay Gia chủ Upāli của Tôn giả đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn.”

– Này Tapassi, không thể có sự kiện, không thể có trường hợp Gia chủ Upāli trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Có thể có sự kiện Sa-môn Gotama trở thành đệ tử của Gia chủ Upāli. Này Tapassi, ta sẽ đi và tìm biết Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama hay không.

– Rồi Nigaṇṭha Nāṭaputta cùng với đại chúng Nigaṇṭha đi đến trú xá của Gia chủ Upāli. Người giữ cửa thấy Nigaṇṭha Nāṭaputta từ xa đi đến. Khi thấy vậy, liền nói với Nigaṇṭha Nāṭaputta:

– Thưa Tôn giả, hãy đứng lại tại đây, chớ có bước vào! Từ nay trở đi, Gia chủ Upāli đã trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Cửa sẽ đóng đối với các nam Nigaṇṭha, nữ Nigaṇṭha. Cửa sẽ không đóng đối với các vị Tỷ-kheo, Tỷ-kheo-ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ của Thế Tôn. Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả cần các món ăn, hãy đứng ở đây, sẽ có người đem ra tại đây cho Tôn giả.

– Này người giữ cửa, hãy đi đến Gia chủ Upāli, sau khi đến, hãy thưa như vầy: “Thưa Tôn giả, Nigaṇṭha Nāṭaputta cùng với đại chúng Nigaṇṭha đang đứng ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả.”

– Thưa vâng, Tôn giả.

– Người giữ cửa vâng đáp Nigaṇṭha Nāṭaputta, đi đến Gia chủ Upāli, sau khi đến liền thưa:

– Thưa Tôn giả, có Nigaṇṭha Nāṭaputta cùng với đại chúng Nigaṇṭha đang đứng ngoài ngưỡng cửa và muốn yết kiến Tôn giả.

– Này người giữ cửa, hãy vào sắp đặt các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa.

– Thưa vâng, Tôn giả.

– Người giữ cửa vâng đáp Gia chủ Upāli, sau khi cho sắp đặt các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa, đi đến Gia chủ Upāli, sau khi đến liền thưa:

– Thưa Tôn giả, các chỗ ngồi trong căn phòng chính giữa có cửa đã được sửa soạn. Tôn giả hãy làm những gì Tôn giả nghĩ là hợp thời.

– Rồi Gia chủ Upāli đi đến căn phòng chính giữa có cửa, sau khi đến, tại chỗ ngồi nào là tối thượng, tối tôn, tối cao, tối thắng, liền ngồi xuống tại chỗ ấy và bảo người giữ cửa:

– Này người giữ cửa, hãy đi đến Nigaṇṭha Nāṭaputta, thưa như sau: “Thưa Tôn giả, Gia chủ Upāli có nói: ‘Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào.’”

– Thưa vâng, Tôn giả.

– Người giữ cửa vâng đáp Gia chủ Upāli, đi đến Nigaṇṭha Nāṭaputta, sau khi đến liền thưa:

– Thưa Tôn giả, Gia chủ Upāli có nói: “Thưa Tôn giả, nếu muốn, Tôn giả hãy vào.”

– Rồi Nigaṇṭha Nāṭaputta cùng với đại chúng Nigaṇṭha đi vào căn phòng chính giữa có cửa.

– Gia chủ Upāli lúc trước, mỗi khi thấy Nigaṇṭha Nāṭaputta từ xa đi đến, sau khi thấy liền đi ra nghinh đón và dẫn vào, tại chỗ ngồi nào là tối thượng, tối tôn, tối cao, tối thắng, liền lấy thượng y lau sạch chỗ ngồi ấy, giữ lấy và thỉnh Nigaṇṭha Nāṭaputta ngồi trên chỗ ấy. Nhưng lần này, tại chỗ ngồi tối thượng ấy, chính Gia chủ Upāli ngồi xuống và nói với Nigaṇṭha Nāṭaputta:

– Thưa Tôn giả, có các chỗ ngồi. Nếu Tôn giả muốn, xin hãy ngồi xuống.

– Khi nghe nói vậy, Nigaṇṭha Nāṭaputta nói với Gia chủ Upāli:

– Này Gia chủ, Ông thật là điên cuồng. Này Gia chủ, Ông thật là ngu si. Ông đã từng nói: “Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama.” Nhưng sau khi đi, Ông đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn của luận nghị. Này Gia chủ, ví như người đi với hai tinh hoàn đầy đủ, trở về với hai tinh hoàn bị thiến. Này Gia chủ, như người đi với hai con mắt, trở về với hai con mắt bị khoét. Cũng vậy, này Gia chủ, Ông đã nói: “Thưa Tôn giả, tôi sẽ đi luận chiến với Sa-môn Gotama.” Nhưng sau khi đi, Ông đã trở về bị trói buộc trong lưới lớn của luận nghị. Này Gia chủ, Ông đã bị huyễn thuật của Sa-môn Gotama lôi cuốn rồi.

– Thưa Tôn giả, thật là vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thật là tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu những bà con huyết thống thân yêu của tôi được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, là hạnh phúc lâu dài cho các bà con huyết thống của tôi.

– Thưa Tôn giả, nếu tất cả các vị Sát-đế-lỵ được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, là hạnh phúc lâu dài cho tất cả các vị Sát-đế-lỵ.

– Thưa Tôn giả, nếu tất cả các vị Bà-la-môn… nếu tất cả các vị Phệ-xá… nếu tất cả các vị Thủ-đà được huyễn thuật này lôi cuốn, thời thật là an lạc, là hạnh phúc lâu dài cho tất cả các vị Thủ-đà.

– Thưa Tôn giả, nếu thế giới này — cùng với chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên, các Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người — được huyễn thuật này lôi cuốn, thời như vậy là an lạc, là hạnh phúc lâu dài cho thế giới với chư Thiên, Ma vương, Phạm Thiên, các Sa-môn và Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người.

– Thưa Tôn giả, tôi sẽ nói cho Tôn giả một ví dụ. Ở đây, những người có trí, nhờ ví dụ, sẽ hiểu rõ được ý nghĩa của lời nói.

– Thưa Tôn giả, thật vi diệu thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thật tốt lành thay, huyễn thuật lôi cuốn này! Thưa Tôn giả, nếu bà con huyết thống thân yêu của tôi được huyễn thuật này lôi cuốn, thì thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho các bà con huyết thống của tôi. Thưa Tôn giả, nếu tất cả những người Sát-đế-lỵ được huyễn thuật này lôi cuốn, thì thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho tất cả những vị Sát-đế-lỵ. Thưa Tôn giả, nếu tất cả những người Bà-la-môn… nếu tất cả những người Phệ-xá… nếu tất cả những người Thủ-đà được huyễn thuật này lôi cuốn, thì thật là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho tất cả những người Thủ-đà. Thưa Tôn giả, nếu thế giới này với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, với các Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người, được huyễn thuật này lôi cuốn, thì như vậy là an lạc, hạnh phúc lâu dài cho thế giới với chư Thiên, Ma vương, Phạm thiên, với các Sa-môn và Bà-la-môn, với chư Thiên và loài Người.

– Thưa Tôn giả, con sẽ nói một ví dụ. Ở đây, những người có trí nhờ ví dụ sẽ hiểu rõ ý nghĩa lời nói.

– Thuở xưa, có người Bà-la-môn đã già, tuổi đã lớn, là bậc trưởng lão, có người vợ còn trẻ, đang trong tuổi thanh xuân, và người vợ ấy đang mang thai, gần đến kỳ sinh nở. Người vợ trẻ ấy nói với người Bà-la-môn: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố, mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi.”

– Được nói vậy, người Bà-la-môn đáp: “Này mình, hãy chờ khi nào mình sinh. Nếu mình sinh con trai, ta sẽ đi phố mua con khỉ con đực đem về để cùng chơi với con trai mình. Nếu mình sinh con gái, ta sẽ đi phố mua con khỉ con cái đem về để cùng chơi với con gái mình.”

– Lần thứ hai, người vợ trẻ lại nói: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố, mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi.”

– Lần thứ hai, người Bà-la-môn cũng đáp như vậy.

– Lần thứ ba, người vợ trẻ lại nói: “Này Bà-la-môn, hãy đi phố, mua một con khỉ con đực để cùng chơi với con tôi.”

– Bấy giờ, người Bà-la-môn ấy vì quá yêu thương, quá ái luyến vợ mình, nên đi phố mua một con khỉ con đực đem về, rồi nói: “Này mình, đây là con khỉ con đực, ta đã mua ở phố đem về, hãy để nó cùng chơi với con mình.”

– Người vợ trẻ ấy nói: “Này Bà-la-môn, hãy đem con khỉ con đực này đến Rattapani, người thợ nhuộm, và nói: ‘Này bạn Rattapani, tôi muốn con khỉ đực này được nhuộm màu vàng, được khéo đập, khéo ủi xung quanh, và cả hai phía được làm thành mềm dịu.’”

– Người Bà-la-môn vì quá yêu thương, quá ái luyến vợ mình, liền đem con khỉ con đực đến Rattapani và nói đúng như vậy.

– Rattapani đáp: “Này Tôn giả, con khỉ con đực này có thể được nhuộm, nhưng không thể bị đập, không thể bị ủi, và không thể làm thành mềm dịu.”

– Cũng vậy, thưa Tôn giả, lý thuyết của các Nigantha ngu si giống như con khỉ ấy — có thể được ‘nhuộm’ với những kẻ ngu si, nhưng không thể được ‘đập’, được ‘ủi’, không thể trở nên mềm dịu với người có trí.

– Sau một thời gian, người Bà-la-môn ấy lấy một cặp áo mới, đem đến Rattapani và nói: “Này bạn Rattapani, tôi muốn nhuộm cặp áo mới này với màu vàng, được đập, được ủi xung quanh, và được làm thành mềm dịu.”

– Rattapani đáp: “Cặp áo mới này có thể được nhuộm, được đập, được ủi và được làm thành mềm dịu.”

– Cũng vậy, thưa Tôn giả, lý thuyết của Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác, có thể ‘nhuộm’, có thể ‘đập’, có thể ‘ủi’, có thể làm thành mềm dịu — đối với những người có trí, không phải đối với người ngu si.

– Này Gia chủ, quần chúng này, gồm cả các vua, vẫn còn nghĩ rằng: “Gia chủ Upali là đệ tử của Nigantha Nataputta.” Này Gia chủ, nay chúng tôi nên xem Gia chủ là đệ tử của ai?

Khi nghe những lời ấy, gia chủ Upali từ chỗ ngồi đứng dậy, đắp thượng y qua một bên vai, chắp tay cung kính hướng về Thế Tôn, rồi nói với Nigantha Nataputta:

“Thưa Tôn giả, xin hãy lắng nghe ai là người tôi tôn làm bậc Đạo sư:

Người có trí sáng suốt,
Đã đoạn trừ si mê,
Phá tan mọi cõi hoang vu,
Chiến thắng tất cả giặc thù,
Đã diệt tận khổ đau,
Tâm thường an tịnh,
Giới đức thuần thục,
Tuệ giác viên mãn,
Phiền não không còn,
Rời trần, ly cấu.
Chính tôi là đệ tử của bậc ấy – của Thế Tôn.

Người không còn nghi hoặc,
Biết vừa đủ, biết tiết chế,
Xa lìa mọi lợi danh,
Tâm luôn hoan hỷ,
Sống đời Sa-môn,
Sanh làm người giữa thế gian,
Thân này là thân sau cùng.
Ngài là bậc Thánh tối thắng,
Đã rời trần, ly cấu.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Không còn do dự,
Khéo hành thiện pháp,
Giữ giới trọn vẹn,
Điều phục bậc nhất.
Là bậc Vô thượng Sĩ,
Ánh sáng tỏa rạng,
Đã đoạn nghi hoặc,
Chiếu soi tất cả,
Diệt tận ngã mạn,
Bậc anh hùng vô song.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài là Vương của loài Người,
Tâm không đo lường được,
Thâm sâu không thể nghĩ bàn.
Là bậc Thánh tịch tịnh,
Dẫn dắt an ổn,
Có trí tuệ vững chắc,
An trú trong Pháp vị,
Tự phòng hộ bản thân,
Vượt thoát mọi tham ái,
Giải thoát bằng trí tuệ.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài là Long vương cao quý,
Sống viễn ly thế tục,
Đoạn tận kiết sử,
Giải thoát không ai sánh bằng.
Biện tài ôn hòa,
Thanh tịnh trong sạch,
Hủy bỏ mọi ngã mạn,
Diệt tận mọi ái dục,
Khéo điều phục chúng sanh,
Dứt hết mọi hý luận.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài là bậc tiên nhân đệ nhất,
Không tin vào lời đồn,
Thành tựu Tam minh,
Đạt đến cảnh giới Phạm thiên.
Gột sạch cả thân lẫn tâm,
Thông đạt ngôn ngữ và cú pháp,
An lạc, khinh an,
Chứng đắc chánh trí,
Phá tan thành trì dục vọng,
Dẫn dắt cả thiên chúng.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài là bậc Thánh nhân,
Tự tu và tự chứng,
Chứng đạt điều phải chứng,
Giảng dạy ngay trong hiện tại,
Chánh niệm tỉnh giác,
Thiền định sâu xa,
Không dính mắc dục trần,
Không nuôi dưỡng tâm sân,
Không còn giao động,
Tâm thân tự tại.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài sống theo Chánh đạo,
Thiền định, trầm tư,
Tâm không nhiễm ô,
Thanh tịnh rốt ráo,
Không dính mắc, không chấp thủ,
Không ước nguyện, không cầu mong,
Độc cư, tĩnh tọa,
Chứng quả tối thượng,
Vượt qua mọi dòng sanh tử,
Dẫn người vượt theo.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài chứng đắc tịch tịnh,
Trí tuệ vô biên,
Trí tuệ sâu rộng,
Đã đoạn tận ái dục.
Ngài là Như Lai,
Là bậc Thiện Thệ,
Không ai sánh được,
Không ai bằng Ngài,
Đức hạnh viên mãn,
Tự tin không ai bằng.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Ngài đoạn tận mọi ái dục,
Là bậc giác ngộ Chánh giác,
Trừ sạch khói mù si mê,
Tẩy sạch mọi ô uế,
Xứng đáng được cúng dường,
Dạ-xoa đều kính lễ,
Bậc Thánh vô thượng,
Không ai có thể đo lường,
Bậc Đại nhân, Đại giác,
Đáng được xưng tụng.
Chính tôi là đệ tử của Thế Tôn.

Thế Tôn hỏi: “Này Gia chủ, Ông đã tích lũy những điều tán thán này về Sa-môn Gotama từ bao giờ?”

Gia chủ Upali thưa: “Thưa Tôn giả, ví như một bó hoa gồm nhiều loại, người làm vòng hoa khéo léo có thể kết thành nhiều vòng hoa khác nhau. Cũng vậy, Thế Tôn có vô số đức hạnh, có hàng trăm điều đáng tán thán. Và thưa Tôn giả, ai lại không tán thán bậc đáng được tán thán!”

Vì Nigantha Nataputta không thể chịu đựng được lời tán thán Thế Tôn, nên ngay tại chỗ ấy đã thổ ra huyết nóng.

QR Code
QR Code https://thuvienphatgiao.org/kinh-upali/

Hành trình đến con đường Giác ngộ

Xem thêm những bài viết

Tiểu kinh Màlunkyà – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 63
Thế Tôn bảo Tôn giả Māluṅkyaputta: — Này Māluṅkyaputta, có bao giờ Ta nói với Ông rằng:“Hãy đến này Māluṅkyaputta, hãy sống Phạm hạnh…
Ðại kinh Giáo giới La-hầu-la – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 62
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sāvatthī, Jetavana, tại tịnh xá Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Ðộc). Rồi Thế Tôn, vào buổi…
Kinh Giáo Giới La-hầu-la ở rừng Ambala – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 61
Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Rajagaha (Vương Xá), Veluvana (Trúc Lâm), tại Kalandakanivāpa (chỗ nuôi dưỡng sóc). Lúc bấy…
Kinh Không Gì Chuyển Hướng – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 60
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn du hành giữa dân chúng Kosala, cùng với Đại chúng Tỷ-kheo, và đến tại Sala, một…
Kinh Vương Tử Vô Uý – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 58
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú tại Vương Xá (Rājagaha), trong Trúc Lâm (Veluvana), tại chỗ nuôi sóc Kalandakanivāpa. Bấy giờ,…
Kinh Nhiều Cảm Thọ – Trung Bộ Kinh – Bài Kinh Số 59
Như vầy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn ở tại Xá Vệ (Sāvatthī), trong Rừng Kỳ-đà (Jetavana), tại tinh xá ông Cấp Cô Ðộc…